Phát triển nguồn sữa nội thay thế hàng nhập khẩu

Phát triển nguồn sữa nội thay thế hàng nhập khẩu

Theo Bộ NN-PTNT, nếu năm 1990 lượng sữa tiêu thụ bình quân/người/năm ở Việt Nam chỉ đạt 0,47 kg, thì năm 1995 đã tăng lên đến 2,05 kg, năm 1998 trên 5 kg, năm 2000 là 6,5 kg, năm 2001 là 7,0 kg, năm 2003 tăng lên 8,2 kg và năm 2004 ước tính đạt 9 kg. Như vậy so với năm 1990, năm 2004 mức tiêu thụ sữa của Việt Nam đã tăng gấp 19 lần.

Nhiều cơ hội tăng tốc

Với mức tiêu dùng sữa của người dân ngày càng cao, dự báo mức sữa tiêu dùng bình quân/đầu người/năm từ 9 kg trong năm 2004 sẽ tăng lên 13 - 14 kg vào năm 2010. Nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh đã thúc đẩy làm tăng nhanh sản xuất sữa trong nước, cả nguyên liệu và thành phẩm. Sản lượng sữa nguyên liệu sản xuất trong nước năm 1998 đạt hơn 36.000 tấn, năm 1999 đạt 39.000 tấn năm 2000 đạt 54.000 tấn, năm 2001 đạt 68.000 tấn, năm 2003 đạt 85.000 tấn và ước tính năm 2005 đạt 110.000 tấn. So với lượng sữa tiêu dùng thì sản xuất sữa nguyên liệu trong nước hiện nay mới đáp ứng được 12- 15% nhu cầu, còn lại khoảng hơn 85% phải nhập khẩu.

Nhu cầu tăng cùng với quy mô thị trường tiêu thụ thuộc loại lớn ở Đông - Nam Á đã thúc đẩy nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào sản xuất sữa ở Việt Nam. Hiện nay, trên thị trường có bảy công ty chính trong ngành sữa là: Công ty Vinamilk, Công ty TNHH Cô Gái Hà Lan- Dutch Lady, Công ty TNHH Nestlé Việt Nam, Công ty Nutifood, Công ty cổ phần Hanoi Milk, Công ty Đại Tân Việt, Công ty F&N và nhiều công ty có quy mô sản xuất nhỏ khác. Các công ty này hiện đang cạnh tranh khá gay gắt trên đa số các phân khúc của thị trường. Đối với các sản phẩm sữa tươi, sữa chua uống, sữa đác, Vinamilk đang chiếm vị trí dẫn đầu thị trường. Đối với các sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng Vinamilk chiếm khoảng 35% thị phần nội địa, khoảng 65% thị phần còn lại thuộc các sản phẩm của các công ty: Dutch Lady, Nestle, Abbot (Hoa Kỳ), Anlene (New Zealand), Dumex, Mead Johnson (Hoa Kỳ)...

Theo thống kê của Bộ Thương mại, năm 2000 tổng các sản phẩm sữa nhập bằng con đường chính ngạch quy ra sữa bột khoảng hơn 50.000 tấn, tương đương với 400.000-450.000 tấn sữa tươi. Năm 2002, giá trị nhập khẩu các sản phẩm từ sữa của Việt Nam là 122 triệu USD, năm 2003 là 164 triệu USD, tăng 37% so với năm 2002, năm 2004 giá trị nhập khẩu tăng mạnh do giá sữa nguyên liệu tăng cao kỷ lục và ước đạt 220 triệu USD. Như vậy với tình hình thị trường như trên, ngành sữa Việt Nam còn rất nhiều cơ hội để phát triển sản xuất sữa nội địa thay thế hàng nhập khẩu. Dự báo tốc độ tăng trưởng của ngành sữa Việt Nam sẽ duy trì ở mức 20%/năm.

Nỗi lo nguồn nguyên  liệu

Nguyên vật liệu cho ngành chế biến sữa Việt Nam hiện nay được lấy từ hai nguồn chính: sữa bò tươi được thu mua từ các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa trong nước và nguồn sữa bột ngoại nhập. Nguồn sữa tươi thu mua từ các hộ nông dân hiện chỉ cung cấp được khoảng 12- 15% nguyên liệu cho các nhà máy trong nước, còn lại 85% nguồn nguyên liệu là sữa bột nhập ngoại.

Như vậy, nghề nuôi bò sữa của Việt Nam vẫn còn một thị trường rất rộng lớn để phát triển. Tuy nhiên, nghề này hiện chỉ ở quy mô nhỏ, sản lượng thấp, gặp nhiều thách thức như: thiếu giống bò sữa tốt, thích hợp với điều kiện chăn nuôi của Việt Nam, tổ chức sản xuất chưa hợp lý, thiếu tính tập trung và chuyên nghiệp, trình độ chăn nuôi thấp, thiếu vốn đầu tư dài hạn, thú y và các dịch vụ kỹ thuật còn hạn chế, giá thức ăn cho bò đang tăng nhanh (năm 2004 tăng khoảng 15%) làm giảm lợi nhuận của người nuôi...

Nhận rõ tầm quan trọng của ngành nuôi bò sữa, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 167 TTG ngày 26-10-2001 về một số chính sách phát triển bò sữa của Việt Nam thời kỳ 2001-2010. Thực hiện quyết định này, Bộ NN-TNT đã và đang tiếp tục triển khai các biện pháp phát triển ngành chăn nuôi bò sữa của Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu đưa tỷ trọng sữa tươi sản xuất trong nước so với tổng lượng sữa tiêu dùng từ 11,4% năm 2001, lên 20% năm 2005, và lên 40% vào năm 2010. Bên cạnh việc hỗ trợ về mặt chính sách của Nhà nước nêu trên, các công ty sữa cũng đang có những biện pháp hỗ trợ tích cực cho người nông dân chăn nuôi bò sữa, đồng thời đầu tư xây dựng các mô hình chăn nuôi bò sữa mới và các cơ sở chế biến sữa ngay tại nguồn nguyên liệu.

Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) là công ty thành công nhất ở Việt Nam trong việc hỗ trợ phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước. Vinamilk dự định phấn đấu đến năm 2010 sẽ có nguyên liệu trong nước thay thế cho khoảng 40- 50% nguồn nguyên liệu ngoại nhập để phục vụ cho sản xuất của công ty. Những năm tới Vinamilk sẽ tiếp tục việc hỗ trợ nông dân chăn nuôi bò sữa với các chính sách: hỗ trợ nông dân vay vốn mua con giống để phát triển chăn nuôi bò sữa; hỗ trợ vốn và kỹ thuật giúp nông dân nâng cao chất lượng con giống, chất lượng chuồng trại, đồng cỏ... và bao tiêu toàn bộ sản phẩm sữa bò tươi cho nông dân. Đầu tư phát triển mô hình trang trại chăn nuôi bò sữa kiểu mẫu với kỹ thuật hiện đại, làm điểm tham quan học tập cho các trang trại và hộ gia đình chăn nuôi bò sữa; hỗ trợ vốn và hợp tác với các địa phương để tạo ra những vùng nuôi bò sữa theo công nghệ tiên tiến. Phối hợp với các công ty và chuyên gia nước ngoài để mở rộng các chương trình khuyến nông; hội thảo, tập huấn, cung cấp thức ăn hỗn hợp, các vật dụng cần thiết trong chăn nuôi bò sữa với giá cả ưu đãi cho các hộ giao sữa cho Vinamilk.

Trước tình hình giá thức ăn chăn nuôi tăng cao biến động, Vinamilk tăng giá thu mua từ 3.200 đồng/kg lên 3.500 đồng/kg (bắt đầu áp dụng từ ngày 1-9-2004 trên phạm vi cả nước). Nhờ tổ chức tốt khâu thu mua, sản lượng sữa tươi thu mua trong nước của Vinamilk mỗi năm một tăng.

Như vậy, dự kiến trong tương lai, ngành sữa Việt Nam sẽ dần giảm tỷ trọng sữa nguyên liệu nhập khẩu, thay thế vào đó là nguồn nguyên liệu sữa tươi bảo đảm chất lượng sản phẩm sữa cho người tiêu dùng và góp phần thúc đẩy các ngành hỗ trợ trong nước.