Phát triển giáo dục và đào tạo đồng bằng sông Cửu Long

Kỳ I: Ðưa giáo dục đồng bằng sông Cửu Long thoát khỏi "vùng trũng" về giáo dục

Những hạn chế, yếu kém là một trong những nguyên nhân khiến giáo dục (GD) của đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) luôn thuộc "nhóm dưới" so với mặt bằng chung cả nước. Thực tế đã có những giải pháp, cách làm hay ở từng địa phương để nhanh chóng đưa giáo dục ÐBSCL thoát khỏi "vùng trũng" về giáo dục.

Còn nhiều lực cản

Từ bến Năm Căn, điểm cuối cùng của quốc lộ 1A, chiếc ca-nô nổ máy ròn rã, rẽ sóng đưa chúng tôi về đất mũi Cà Mau. Một trong những đặc điểm nổi bật của vùng đất nơi tận cùng Tổ quốc là hệ thống sông ngòi chằng chịt, do vậy, việc đi lại của người dân chủ yếu bằng phương tiện xuồng, đò. Thực tế đã có nhiều học sinh thuộc gia đình khó khăn phải bỏ học vì không có tiền đò tới lớp. "Cả trường có hơn 360 học sinh ở 11 lớp thì có tới gần 30% phải đi học bằng đò. Nhiều em phải đi 10 - 15 km lênh đênh trên sông nước, mất hơn một tiếng đồng hồ mới tới được trường" - Hiệu trưởng Trường THCS Ðất Mũi Nguyễn Ngọc Tới cho biết khi kể về đường tới trường của học sinh. Không chỉ ở Cà Mau, theo thống kê sơ bộ, miền Tây Nam Bộ có khoảng 54 nghìn km sông rạch. Giao thông đi lại chủ yếu là đường thủy với chiếc xuồng nhỏ bé, đơn sơ giữa mênh mông sông nước là trở ngại lớn trên con đường tới trường của các em học sinh. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng trên địa bàn còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, những khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội kéo theo thực trạng hệ thống cơ sở vật chất trường, lớp học yếu kém. Ðây cũng là "bài toán khó" cho việc đáp ứng yêu cầu phát triển GD và ÐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Theo tính toán của Trưởng phòng GD và ÐT huyện miền núi Tri Tôn (An Giang) Phạm Kỳ Sơn, tổng số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước năm 2008 và chuyển tiếp từ năm học trước trên địa bàn huyện lên tới hơn 71 tỷ đồng. Tuy nhiên, cả huyện vẫn còn 36/98 phòng học mầm non phải mượn tạm; tiểu học có 40 phòng tạm, mượn và sáu phòng tre lá, tạm bợ. Bậc THCS còn mười phòng học cũng tình trạng đó. Tuy "khấm khá" hơn Tri Tôn nhưng Phó Giám đốc Sở GD và ÐT Sóc Trăng Mai Văn Nhân cũng thừa nhận: Dù đã cơ bản xóa phòng học ca ba, phòng tre lá nhưng so với yêu cầu đổi mới, hệ thống trường lớp của tỉnh vẫn nghèo nàn. Trong số 27 trường THPT chưa có trường nào đạt chuẩn quốc gia, THCS chỉ có 10/106 và tiểu học có 41/298 trường đạt chuẩn. Trường, lớp học của tỉnh mới chỉ đáp ứng được một phòng/hai lớp chứ chưa thể một phòng/một lớp. Bên cạnh đó, các phòng chức năng, thí nghiệm, thiết bị thư viện cũng hết sức nghèo nàn.

Một trở ngại khác dễ nhận thấy là công tác quản lý GD và ÐT trong toàn vùng nhiều hạn chế do trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ quản lý còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp GD và ÐT. Ðội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng. Phần lớn các địa phương ở ÐBSCL giáo viên một số bộ môn, như thể dục, nhạc họa, ngoại ngữ còn thiếu. Nhiều tỉnh phải "chữa cháy" bằng cách tuyển một số sinh viên tốt nghiệp trường trung cấp văn hóa nghệ thuật sang giảng dạy nhạc họa. Số giáo viên này có trình độ nhưng thiếu nghiệp vụ sư phạm cho nên chất lượng giáo dục không bảo đảm. Ở khía cạnh khác, Phó Trưởng phòng GD và ÐT huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng) Lê Quang Vui lại lo lắng, khi cả huyện có 52% số người là dân tộc Khmer với 37/45 trường có dạy tiếng Khmer. Dạy tiếng Khmer thì phải bố trí giáo viên dạy chuyên trách cho nên số lượng giáo viên tăng lên so với các vùng khác. Tuy nhiên, biên chế giáo viên theo Thông tư 35/2006/TTL-BGDÐT-BNV lại chưa tính đến đặc thù vùng dân tộc. Vì vậy, việc bố trí đủ khoảng 80 giáo viên dạy chuyên tiếng Khmer theo yêu cầu giảng dạy lại bị "hụt" vào tổng biên chế theo quy định của Thông tư 35 đã tạo nên một "khoảng trống" không đáng có về đội ngũ giáo viên.

Nhà giáo Trần The, người từng nhiều năm gắn bó với Sóc Trăng, đồng thời là tác giả của nhiều cuốn sách dạy học bằng tiếng Khmer thì chia sẻ: Việc dạy tiếng dân tộc thiểu số mà giáo viên chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên, các công cụ hỗ trợ khác đều "trống rỗng" khiến gánh nặng truyền tải kiến thức "dồn" lên giáo viên và học sinh. Ðó là chưa kể những khó khăn bất cập từ nội dung chương trình mà theo như cô giáo Trần Thị Kim Hồng (Trường dân tộc nội trú Vĩnh Châu, Sóc Trăng) thì, so với khả năng nhận thức của học sinh còn quá nặng, ôm đồm. Vốn từ tiếng phổ thông của học sinh dân tộc thiểu số đã kém, trong khi chương trình nội dung lại không tính đến đặc thù văn hóa vùng, miền cho nên học sinh càng khó tiếp thụ hơn.

Cần nhiều giải pháp thích hợp và đồng bộ

Hằng năm, tỷ lệ học sinh bỏ học cao vẫn đang là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý giáo dục vùng sông nước ÐBSCL. "Bật mí" bí quyết đưa học sinh bỏ học trở lại trường, bác Trần Minh Triều, phụ huynh học sinh ấp Ðất Mũi, xã Ðất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau cho chúng tôi biết: Trước đây, học sinh khá giỏi của ấp chỉ có giấy khen nhưng năm học vừa qua, Hội phụ huynh tích cực vận động tài trợ để thưởng cho các cháu mười quyển vở kèm giấy khen. Cách làm ấy tưởng không quan trọng gì nhưng lại có tác động lớn, kích thích tinh thần đến lớp, đua tranh học tập của các cháu. Cùng với người dân, sự nhiệt tình, tâm huyết của các thầy giáo, cô giáo gắn bó với sự nghiệp GD và ÐT cũng góp  phần quan trọng vào sự nghiệp trồng người ở vùng sâu Tây Nam Bộ. Hơn ba giờ chiều hôm đó, khi chúng tôi có mặt tại Trường dân tộc nội trú Vĩnh Châu (Sóc Trăng) cũng là lúc thầy Hiệu trưởng người dân tộc Khmer Thạch Phước Thành vừa từ xa về. Qua chuyện trò mới biết, thầy Thành ra đi từ tờ mờ sáng, vượt gần 30 km đường khó khăn để tìm học sinh Thạch Sa Vin lớp 8B bỏ học đi chơi mấy ngày liền. Chuyện tình cảm thầy trò kiểu như thầy hiệu trưởng Thành và các đồng nghiệp khác nơi đây nhiều vô kể. Phó Trưởng phòng GD và ÐT huyện Vĩnh Châu Lê Quang Vui đưa ra danh sách những người dân do tâm huyết với sự nghiệp "trồng người" cho nên hiến đất xây dựng trường học.

Có thể nêu một vài thí dụ điển hình: Chùa Tầng Dù hiến gần bảy nghìn m2, chùa Giòng Dú hiến bốn nghìn m2, chùa Xung Thom hiến năm nghìn m2, ông Tăng Khiết hiến bốn nghìn m2 đất xây dựng trường học... Mặc dù, kinh tế khó khăn nhưng sự nhiệt huyết với sự nghiệp GD và ÐT của người miền Tây là rất lớn. Theo Phó Giám đốc Sở GD và ÐT Sóc Trăng Mai Văn Nhân, điểm nổi bật của công tác xã hội hóa giáo dục là việc hiến đất xây dựng trường, lớp học. Từ năm học 2003 - 2004 đến nay, các tổ chức, cá nhân trong tỉnh hiến hơn 154 nghìn m2 đất, 10,8 tỷ đồng giúp xây dựng, sửa chữa nhiều trường học. Tại tỉnh Cà Mau, theo NGND, TS Thái Văn Long, Giám đốc Sở GD và ÐT, bốn năm qua, các tổ chức, cá nhân hiến gần 110 nghìn m2 đất, hơn 14 tỷ đồng cùng hơn 50 nghìn cuốn sách, vở giúp học sinh nghèo đến trường... Ngoài ra, tính riêng trong năm 2008, các tỉnh trong vùng đang triển khai xây dựng 8.293 phòng học, 1.075 nhà công vụ giáo viên theo chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên. Từ đó bức tranh về mạng lưới trường, lớp từ mầm non đến trung học phổ thông của vùng ÐBSCL có phần sáng sủa hơn.

Trên các dòng sông ngang dọc ở Cà Mau, hàng chục chiếc ghe, xuồng hằng ngày nhẹ nhàng rẽ nước, đưa rước học sinh đến trường. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng may mắn có điều kiện đến trường dễ dàng vì bình quân mỗi em đến lớp phải trả từ 45 đến 200 nghìn đồng tiền đò/tháng. Với những gia đình khá giả thì số tiền ấy chẳng thấm vào đâu. Nhưng với hơn 13 nghìn em có hoàn cảnh gia đình khó khăn là điều không dễ. Xác định được nguyên nhân học sinh bỏ học nhiều do không có tiền đò tới trường khiến những người quan tâm đến chất lượng GD và ÐT cũng "đau đầu". Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau Nguyễn Tuấn Khanh luôn trăn trở về điều đó. Không chịu bó tay, cuối năm học 2008-2009, Bí thư Tỉnh ủy cùng lãnh đạo tỉnh bàn giải pháp khắc phục. Chủ trương của Tỉnh ủy sớm được hiện thực hóa bằng phương án trợ giúp tiền đò của UBND tỉnh cho học sinh là con đồng bào dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo; con thương binh, liệt sĩ, khuyết tật và bị nhiễm chất độc hóa học mỗi tháng 150 nghìn đồng/học sinh. Chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Cà Mau "đánh thức" tinh thần hiếu học, giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Ðiều đáng nói - chủ trương đó tạo "luồng gió mới" cho toàn thể cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp GD và ÐT. Hàng chục doanh nghiệp và người dân trong và ngoài tỉnh Cà Mau quyên góp ủng hộ hàng chục tỷ đồng trợ giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn đi học bằng đò. Từ "cú hích" của tỉnh, nhiều địa phương của Cà Mau năng động, sáng tạo đưa ra nhiều giải pháp giúp đỡ học sinh khó khăn.

Không chỉ ở Cà Mau, Sóc Trăng, mà mỗi địa phương trong vùng đều  tìm những giải pháp phù hợp đặc điểm riêng để đưa GD và ÐT ở ÐBSCL thoát khỏi "vùng trũng" về giáo dục. Trong câu chuyện với chúng tôi, TS Hồ Việt Hiệp, Bí thư Huyện ủy Tri Tôn và là người từng nhiều năm đứng đầu ngành GD và ÐT An Giang nhận định: Phát triển sự nghiệp GD và ÐT trong vùng cần cái nhìn tổng thể, giải quyết đồng bộ nhiều giải pháp; từ cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo đến phân bố chương trình, phương pháp giảng dạy, v.v.

Nói về giải pháp để phát triển và nâng cao chất lượng GD và ÐT vùng ÐBSCL, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng, việc tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học như tập trung triển khai tốt Chương trình kiên cố hóa trường học và nhà công vụ giáo viên cùng các chương trình, dự án khác nhằm hoàn thiện mạng lưới trường học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông sẽ là bàn đạp quan trọng thúc đẩy GD và ÐT trong vùng vươn lên. Bên cạnh đó, đẩy mạnh tổ chức dạy hai buổi/ngày, nhất là đối với các trường phổ thông dân tộc nội trú; hoàn thiện và mở rộng quy mô các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và cấp huyện. Với mỗi địa phương, trường học sớm xây dựng kế hoạch giúp đỡ, bồi dưỡng học sinh học lực yếu kém ngay từ đầu năm học. Mặt khác, với học sinh học tập tiếp tại các trung tâm giáo dục thường xuyên cần được phân luồng theo các hình thức học tập phù hợp. Sự vào cuộc của các tổ chức xã hội hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập và thực hiện miễn giảm học phí cho học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn cũng có vai trò quan trọng. Nhất là giúp học sinh dân tộc thiểu số học tiếng phổ thông, vận động cha mẹ học sinh tạo điều kiện cho con em học tập. Trong dạy và học, cần đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo, tăng cường năng lực tự học của học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá, phối hợp nhiều hình thức trong kiểm tra. Ðáng chú ý, cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, thu hút đội ngũ trí thức; nhất là đội ngũ nhà giáo có trình độ tham gia công tác phát triển sự nghiệp GD và ÐT vùng ÐBSCL. Bộ GD và ÐT và các địa phương cần tăng chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo đội ngũ giáo viên phổ thông; nhất là dạy các môn: âm nhạc, mỹ thuật, giáo dục công dân, ngoại ngữ... Mặt khác, cần có sự gắn kết giữa các địa phương cùng các trường đại học trong việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và ban hành các chính sách đặc thù phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi tỉnh, từ đó  tạo "điểm nhấn", thúc đẩy sự nghiệp GD và ÐT trong toàn vùng cùng phát triển.

Bài, ảnh:  PHAN HUY HIỀN và XUÂN KỲ
(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm