Trong lĩnh vực thủy điện, tuy tổng công suất các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ (TÐVVN) chiếm tỷ trọng không lớn, song nếu không được quản lý, giám sát chặt chẽ, đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương từ khâu quy hoạch đến đầu tư, xây dựng và vận hành thì có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, khó lường.
Cơ bản khai thác hết công suất
Theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, tổng công suất các nguồn thủy điện hiện đạt khoảng 17 nghìn MW với sản lượng khoảng 70 tỷ kW giờ/năm. Các nguồn thủy điện lớn đã đầu tư từ nhiều thập kỷ qua, đến nay coi như đã kết thúc, trong đó có hơn 300 dự án TÐVVN được xây dựng với tổng công suất khoảng 4.000MW, đóng góp mỗi năm hơn 10 tỷ kW giờ cho hệ thống lưới điện quốc gia. Nhiều dự án TÐVVN đã đi vào vận hành ổn định, tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương, đóng góp một phần điện năng quan trọng cho lưới điện quốc gia.
Bộ Công thương cho biết, qua các nghiên cứu quy hoạch của Bộ và UBND các tỉnh liên quan chỉ đạo độc lập, có 824 dự án thủy điện (DATÐ) với tổng công suất 24.778MW nằm trong quy hoạch, đạt 95,3% về công suất so tiềm năng. Trong đó, đã có 343 dự án vận hành khai thác với tổng công suất 17.987MW (bằng 72,59% công suất quy hoạch); đang thi công xây dựng 165 dự án với tổng công suất 3.348MW (chiếm 13,51% công suất quy hoạch); đang nghiên cứu đầu tư xây dựng 260 dự án với tổng công suất 3.050MW, còn lại 56 dự án với tổng công suất 393,5MW chưa có chủ trương đầu tư.
Theo Quyết định số 2394/QÐ-BCN ngày 1-9-2006 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) về phân ngưỡng thủy điện các công trình, DATÐ nhỏ có công suất nằm trong phạm vi từ 1 đến 30MW. Theo tiêu chí này, cả nước hiện có 714 DATÐ nhỏ với tổng công suất 7.238MW nằm trong quy hoạch, trong đó đã vận hành khai thác 270 DATÐ với tổng công suất 2.767,7MW (38,2% công suất quy hoạch); đang thi công xây dựng 141 DATÐ với tổng công suất 1.739MW (24% công suất quy hoạch); đang nghiên cứu đầu tư xây dựng 250 DATÐ với tổng công suất 2.466MW, còn lại 53 DATÐ chưa có chủ trương đầu tư.
Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 62/2013/QH13 về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện; Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 18-2-2014 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 62 của Quốc hội. Thực hiện các Nghị quyết nêu trên, Bộ Công thương và UBND các tỉnh đã rà soát, loại bỏ 468 dự án, vị trí tiềm năng thủy điện với tổng công suất 2.044MW do không bảo đảm hiệu quả đầu tư, tác động tiêu cực đối với môi trường - xã hội (chủ yếu là DATÐ nhỏ, bình quân 4,4MW/dự án).
Còn nhiều khó khăn, bất cập
Do phong trào xây dựng thủy điện ồ ạt giai đoạn 2010-2014, nảy sinh một số bất cập, hạn chế: một số dự án ảnh hưởng môi trường rừng và xả lũ không đúng quy trình. Công tác nghiên cứu, lập quy hoạch ở một số địa phương còn thuần túy dựa trên đề xuất của các doanh nghiệp mà chưa có cách tiếp cận, nghiên cứu tổng thể về khai thác tiềm năng thủy điện, chưa thật sự phù hợp quy hoạch điện lực của tỉnh và bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường. Việc quản lý chất lượng từ khâu khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng thủy điện nhỏ còn tồn tại một số bất cập, như khảo sát địa chất không đầy đủ, thiết kế chưa tuân thủ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp và tiến độ thi công xây dựng chưa bảo đảm an toàn… dẫn đến một số sự cố hoặc phát sinh cần xử lý. Các DATÐ nhỏ hầu hết được xây dựng tại các huyện miền núi, xa trung tâm, địa hình hiểm trở, độ dốc lớn, thường xuyên sạt lở vào mùa mưa lũ, cho nên rất khó khăn và gặp nhiều rủi ro không lường trước trong việc thi công xây dựng. Hầu hết cán bộ chuyên môn tại các sở công thương còn thiếu và chưa đúng chuyên môn công tác, cho nên việc thẩm định hồ sơ quy hoạch, đánh giá chất lượng xây dựng… chưa được thực hiện một cách bài bản, còn nhiều thiếu sót dẫn đến chất lượng quản lý chưa cao; một số dự án còn chồng lấn phạm vi khai thác, mâu thuẫn về khai thác nguồn nước và chưa phù hợp các quy hoạch liên quan khác như thủy lợi, giao thông, du lịch, điện lực hoặc hiệu quả kinh tế còn thấp.
Trong quá trình vận hành (QTVH), các dự án TÐVVN phụ thuộc nhiều vào nội dung các bản tin dự báo khí tượng, trong khi ngày càng xuất hiện những điều kiện thời tiết phức tạp, cực đoan, lũ có xu hướng bất lợi hơn. Công tác phối hợp giữa một số chủ đập với Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh và các cơ quan liên quan ở địa phương chưa thật sự chặt chẽ; quy chế phối hợp thông báo, cảnh báo lũ chưa cụ thể. Chưa quy định rõ phương thức liên lạc, cung cấp thông tin, báo cáo, trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong việc phối hợp phòng, chống lũ lụt cho vùng hạ du đập. Trong khi đó, cơ quan chịu trách nhiệm về phòng, chống lụt, bão tại một số địa phương thiếu chủ động kiểm tra, đôn đốc, phối hợp chủ đầu tư trong công tác điều hành hồ, không nắm được thông tin, nhất là khi các hồ xả lũ. Qua những đợt kiểm tra của Bộ Công thương cho thấy, một số nhà máy thủy điện vẫn còn thiếu sót cần khắc phục như: số lượng và tiêu chuẩn của trưởng ca còn chưa đáp ứng theo quy định; báo cáo duy trì điều kiện cấp Giấy phép hoạt động điện lực và báo cáo tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa kịp thời, việc cấp số liệu cho đơn vị điều hành hệ thống điện và thị trường điện (cấp số liệu trước ngày 1-9 hằng năm).
Năng lực của cán bộ vận hành công trình và cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương còn nhiều hạn chế. Tại một số công trình, còn thiếu cán bộ vận hành có kinh nghiệm, được trang bị đầy đủ kiến thức, vì vậy, có lúc chưa tuân thủ QTVH đã được phê duyệt; chưa lập kế hoạch vận hành chi tiết, thiếu linh hoạt trong thực hiện QTVH. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương thiếu cán bộ chuyên môn hoặc chưa đáp ứng yêu cầu. Một số cán bộ chuyên trách của cơ quan chịu trách nhiệm về phòng, chống lụt, bão tại địa phương không đủ năng lực, không nắm được thông tin về công trình cũng như nội dung của QTVH hồ chứa thủy điện trên địa bàn…
Ðịnh hướng phát triển bền vững
Ðể bảo đảm vận hành an toàn các hồ, đập TÐVVN, hiện nay Bộ Công thương tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ QTVH hồ chứa, phương án phòng, chống lụt bão, quy trình bảo trì, bảo dưỡng các thiết bị vận hành trên tuyến đập (các thiết bị như cửa van tràn, cửa lấy nước, cửa xả đáy,...), nhất là các nhà máy thủy điện tại khu vực miền trung - Tây Nguyên, khu vực thường xuyên xảy ra lũ lụt.
Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương để thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch, xây dựng, vận hành, khai thác các công trình thủy điện, tiến tới từng bước phát triển thủy điện bền vững trên cơ sở hài hòa giữa yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng với việc cấp nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, giữa phát triển kinh tế với môi trường và giữ gìn bản sắc văn hóa, nhất là vùng miền núi, đồng bào dân tộc. Tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn đập, bảo vệ môi trường, quản lý chất lượng công trình chặt chẽ từ khâu thiết kế, giám sát thi công, QTVH hồ chứa; bồi thường, hỗ trợ di dân, tái định cư, trồng bù rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các dự án. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền cho người dân hạ du để nâng cao khả năng ứng phó lũ lụt. Ðiều chỉnh quy định phân cấp trong quản lý chất lượng công trình xây dựng bảo đảm phù hợp điều kiện năng lực của các sở công thương.
Trong những năm gần đây, với sự thay đổi thảm phủ rừng cộng với tác động của biến đổi khí hậu, lũ lụt và hạn hán ngày càng có xu hướng khốc liệt hơn. Vì vậy, việc quy định thời gian thông báo trước khi xả lũ trong QTVH phải linh hoạt và khả thi. Tăng cường năng lực dự báo; tuyên truyền, nâng cao năng lực ứng xử với lũ, lụt; tăng cường sự phối hợp giữa người dân với các đơn vị chức năng ở hạ du; xây dựng bản đồ ngập lụt ở hạ du; chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống lũ lụt phù hợp năng lực cắt giảm lũ của các công trình thủy lợi, thủy điện trên lưu vực, đặc điểm lũ của lưu vực, tình hình bố trí dân cư, hạ tầng kỹ thuật, sản xuất nông nghiệp hạ du. Thời gian tới, Bộ phối hợp chặt chẽ các cơ quan liên quan tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 33/2016/QH14 của Quốc hội trong lĩnh vực thủy điện; kiên quyết chỉ đạo, xử lý các trường hợp vi phạm hoặc không thực hiện nghiêm các quy định hiện hành về vận hành hồ chứa.
Ðể xây dựng các công trình TÐVVN, phải thu hồi khá nhiều diện tích đất, bình quân 1MW công suất chiếm dụng khoảng 7,41 ha (0,078ha đất ở, 0,256 ha đất trồng lúa, 0,808 ha đất trồng màu, 2,726 ha đất rừng, 1,507 ha đất mặt nước sông, suối và các loại đất khác); phải di dời, tái định cư 0,16 hộ dân. |
Tiềm năng thủy điện nước ta về cơ bản đã được quy hoạch, đạt đến 95,3% tổng công suất tiềm năng kinh tế; các dự án đã hoàn thành và đang thi công xây dựng cũng đạt 86,1% công suất quy hoạch. Hiện cả nước còn 316 dự án đã quy hoạch với tổng công suất 3.443MW chưa thực hiện đầu tư, trong đó chủ yếu là thủy điện nhỏ với 303 dự án, tổng công suất 2.731MW. Hiện các DATÐ nhỏ đóng góp khoảng 6,6% công suất lắp đặt và 5,4% sản lượng điện cho hệ thống lưới điện quốc gia. |