Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong tình hình mới

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH,

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòng -

Những ngày cuối năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tổ chức kỷ niệm trọng thể 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 - 19-12-2016); kỷ niệm 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2016) và 27 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 - 22-12-2016).

Đó là những sự kiện trọng đại của đất nước và Quân đội. Đây là dịp để chúng ta giáo dục, phát huy tinh thần, khí phách, truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1945) chưa được bao lâu, thực dân Pháp được sự đồng lõa, tiếp sức của các nước đế quốc đồng minh đã trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chúng đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946; tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình của nhân dân ta. Đúng như Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc (19-10-1946): “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(1). Tháng 11-1946, quân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng; đầu tháng 12-1946, đánh chiếm Đà Nẵng, Lạng Sơn; ngày 17-12-1946, gây hấn ở Thủ đô Hà Nội... Đặc biệt, ngày 18-12-1946, chỉ huy quân Pháp đã gửi tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát Thủ đô Hà Nội cho chúng trong vòng 48 giờ.

Với khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhân nhượng, kiềm chế hết mức và nỗ lực đàm phán với chính quyền Pháp nhưng không thành công, “Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”(2). Trước tình hình đó, để bảo vệ nền độc lập vừa giành được, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã bước vào cuộc kháng chiến và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với ý chí quyết tâm cao độ “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3); “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”(4).

Với đường lối kháng chiến đúng đắn, Đảng ta đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, giành thắng lợi từng bước, tiến tới kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền quốc gia, biển đảo, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng..., tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng quyết liệt, tinh vi, xảo quyệt... Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta có sự phát triển, yêu cầu cao hơn, đan xen cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn.

Tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải tiếp tục vận dụng những bài học kinh nghiệm quý trong Toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc; trong đó, tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, ngày càng hiện đại.

Đoàn kết là truyền thống quý báu và nguồn sức mạnh vô địch của dân tộc ta. Thực tiễn lịch sử dân tộc và thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã chứng minh: Một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn dân thì có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn. Nhận thức rõ vai trò to lớn của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó cũng là tiền đề cho việc hình thành đường lối: “Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Phát huy tinh thần đó, chúng ta phải thấu suốt: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(5). Trên cơ sở đó, cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống xã hội bằng những hành động, việc làm thiết thực, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, xây dựng nền QPTD vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Hai là, tăng cường các tiềm lực, nhất là tiềm lực chính trị, tinh thần của nền QPTD, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc đã cho thấy, tầm quan trọng của nhân tố chính trị, tinh thần và đây cũng là ưu thế tuyệt đối của ta so với địch. Trong những ngày toàn quốc kháng chiến và suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, phát huy cao độ nhân tố chính trị, tinh thần, nhờ đó tạo nên nguồn sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, làm cơ sở để xây dựng các tiềm lực: kinh tế, văn hóa, quân sự, an ninh, khoa học - công nghệ,... của nền QPTD. Đặc biệt, các cấp, các ngành phải quán triệt, triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong quá trình tổ chức thực hiện, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp trong Quân đội nhiệm kỳ 2015 - 2020; góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của toàn quân.

Ba là, tập trung xây dựng nền QPTD vững mạnh cả về thế trận và lực lượng; gắn xây dựng thế trận QPTD với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực và trên địa bàn cả nước.

Sức mạnh của nền QPTD phụ thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó, yếu tố quan trọng nhất, cốt lõi nhất là thế trận và lực lượng. Vì thế, phải quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận QPTD, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”(6); coi trọng “xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền QPTD và nền an ninh nhân dân”(7). Trước hết, cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch vững mạnh; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ, khơi dậy, quy tụ và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền QPTD.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ (KVPT) vững chắc theo Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) và Nghị định số 02/2016/NĐ-CP ngày 5-1-2016 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2007/NĐ/CP ngày 10-10-2007 của Chính phủ về “Khu vực phòng thủ”. Trọng tâm là xây dựng thế trận quân sự, xây dựng các công trình quốc phòng, KVPT then chốt, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và sở chỉ huy các cấp. Xây dựng KVPT tỉnh (thành phố) phải bảo đảm vững mạnh về quốc phòng, an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự phối hợp, tham mưu tổ chức thực hiện của các lực lượng, ban, ngành đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, chúng ta cần tiếp tục kế thừa bài học quý về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ) từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trước hết, cần tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, nhằm bảo đảm cho Quân đội có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao. Chú trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm cho Quân đội nhân dân thật sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Đề án tổ chức lực lượng Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo, theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, cơ cấu hợp lý giữa các thành phần quân chủng, binh chủng, giữa khối cơ quan và đơn vị, giữa khối chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biên giới, biển, đảo.

Toàn quân phải quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 765-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về công tác huấn luyện. Trong đó, cần tích cực đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện chiến đấu theo hướng: “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát với thực tế chiến đấu, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tác chiến và địa bàn hoạt động. Phải chú trọng nâng cao khả năng khai thác, sử dụng thuần thục các loại vũ khí, trang bị hiện có, nhất là các loại vũ khí, trang bị, phương tiện mới, hiện đại; tổ chức tốt các diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng và diễn tập hiệp đồng với các lực lượng trong KVPT ở các quy mô khác nhau; huấn luyện và diễn tập các lực lượng đặc nhiệm, tác chiến biển, đảo, cứu hộ cứu nạn, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai,... nhằm nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, tạo bước chuyển biến mới, vững chắc trong công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

Phải thực hiện tốt công tác quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật; kết hợp chặt chẽ xây dựng chính quy với rèn luyện kỷ luật, tạo chuyển biến tích cực về chấp hành kỷ luật Quân đội và pháp luật Nhà nước. Phấn đấu giảm tỷ lệ vụ việc kỷ luật thông thường, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc nghiêm trọng, nhất là mất an toàn trong huấn luyện, diễn tập, lao động sản xuất và khi tham gia giao thông.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hậu cần, kỹ thuật; đẩy mạnh xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng theo Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI); trọng tâm là triển khai quy hoạch và các chương trình, dự án trọng điểm, nhằm bảo đảm vũ khí, trang bị cho Quân đội. Cùng với đó, phải tạo sự chuyển biến toàn diện, vững chắc các mặt công tác khác, như: đối ngoại quốc phòng, nghiên cứu khoa học quân sự, kế hoạch - đầu tư, tài chính, pháp chế, tư pháp, thanh tra...; bảo đảm cho Quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến, 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 27 năm Ngày hội QPTD là những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, Quân đội. Tuy những sự kiện này mỗi ngày lại lùi xa, song những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa tầm quan trọng của chúng còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục phát huy vào sự nghiệp xây dựng nền QPTD, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

----------------------------

(1) - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, 1945-1947, Nxb CTQG-ST, H.2000, tr.133.

(2), (3), (4) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.534.

(5) - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.158.

(6) - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.148.

(7) - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.149.

Có thể bạn quan tâm