Hiệu quả từ các công trình thủy lợi
Quảng Trị là một tỉnh có địa hình ngắn, dốc, vùng đồi núi chiếm 81%, vùng đồng bằng 11,5% và vùng cát 7,5%; thời tiết và khí hậu khắc nghiệt nhất ở dải đất miền trung. Ðể giúp người dân vượt qua sự khắc nghiệt của thiên tai, những năm qua, Trung ương và tỉnh Quảng Trị đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng xây dựng hệ thống thủy lợi trên địa bàn vừa bảo đảm tưới tiêu cho đồng ruộng, vừa chống lũ lụt gây ngập úng. Chỉ tính riêng năm 2009, nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi đã lên đến hơn 1.172 tỷ đồng, trong đó có những công trình vốn đầu tư lớn như: nâng cấp hệ thống thủy lợi Nam Thạch Hãn 334,4 tỷ đồng, xây dựng hồ chứa nước Ðá Mài - Tân Kim 173,7 tỷ đồng, Công trình thủy lợi Sa Lung 94,4 tỷ đồng và sửa chữa đê Ô Giang hơn 31 tỷ đồng... Hiện toàn tỉnh có 300 công trình thủy lợi, gồm 72 hồ chứa, 44 đập dâng, 34 trạm bơm tưới tiêu và 150 công trình thủy lợi nhỏ (có tám công trình thủy lợi có năng lực tưới từ 600 ha trở lên). Nhờ nguồn nước tưới mà ruộng đồng ở Quảng Trị tốt tươi, cho năng suất cao (bình quân 10 tấn/ha, có nơi 11-12 tấn/ha) đã góp phần nâng cao đời sống của người dân, nhất là ở vùng nông thôn.
Chủ tịch UBND huyện ÐaKrông Vũ Ðình Hòe cho biết: Những năm qua được sự hỗ trợ của các chương trình, dự án, huyện ÐaKrông đã khai hoang được hơn 150 ha ruộng nước cấp cho dân, đưa tổng diện tích lúa nước toàn huyện lên gần 560 ha. Các công trình thủy lợi đầu tư xây dựng trên địa bàn từ Chương trình 134, 135, Chương trình phát triển nông thôn, Dự án giảm nghèo miền trung... đã phát huy hiệu quả, phục vụ việc chuyển diện tích lúa nương rẫy sang gieo cấy lúa nước. Ðặc biệt, thủy lợi đã góp phần làm thay đổi hẳn tập quán canh tác từ du canh sang thâm canh trên đồng ruộng của đồng bào dân tộc thiểu số, vì năng suất lúa nước cao gấp hơn ba lần lúa nương rẫy (ở miền núi Quảng Trị, một ha lúa nương rẫy năng suất đạt khoảng 7,5 tạ/vụ, còn một ha lúa nước năng suất đạt hơn 35 tạ/vụ), đã hạn chế được tình trạng phá rừng làm nương rẫy. Xã Hướng Hiệp có ba công trình thủy lợi nhỏ là Làng Ruộng, Ca Reng, Hà Bạc, từ khi được đưa vào sử dụng đã chuyển hơn 45 ha trồng lúa nương rẫy sang trồng lúa nước; hai công trình thủy lợi nhỏ Kỳ Say, Ăng Công ở xã A Ngo sau khi đưa vào sử dụng đã góp phần chuyển hơn 35 ha trồng lúa nương rẫy sang trồng lúa nước... Nhờ vậy, sản lượng lương thực trên địa bàn huyện ÐaKrông không ngừng tăng lên từ 3.678, tấn (năm 2000) lên hơn 5.600 tấn (năm 2008).
Không quản ngại khó khăn, gian khổ, nhiều đơn vị thi công công trình thủy lợi trên địa bàn các huyện miền núi Hướng Hóa, ÐaKrông đã bạt núi, mở đường xây dựng hệ thống kênh mương dẫn nước về đồng ruộng của từng bản, làng. Công trình thủy lợi thôn Trĩa, xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hóa nằm chênh vênh trên vách núi, đi bộ hơn 15 km đường rừng mới đến được điểm đầu của công trình. Quá trình thi công, đơn vị xây dựng phải phá hàng trăm m3 đá để đưa ống dẫn nước đi qua. Ðể thi công công trình thủy lợi thôn Trăng, xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa, đơn vị xây dựng phải san ủi mở đường cắt rừng vào đầu nguồn để lấy nước về cho đồng ruộng...
Hệ thống thủy lợi ở vùng cát các huyện Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Vĩnh Linh, ngoài nhiệm vụ tưới tiêu còn góp phần cải tạo môi sinh vùng cát ven biển. Nhờ thủy lợi mà các địa phương đã đưa thêm 2.000 ha đất cát được cải tạo vào sản xuất nông nghiệp ổn định, tạo được hơn 500 ha rừng phòng hộ, chọn được các giống cây lương thực, thực phẩm có giá trị kinh tế cao và tạo điều kiện di, giãn dân tại chỗ, xây dựng làng sinh thái trên vùng cát. Kết quả của các đề tài nghiên cứu đầu tư về xây dựng thủy lợi trên cát được đánh giá là có tính khoa học và thực tiễn rất cao, được các địa phương có vùng cát ứng dụng thành công. Ðiển hình như huyện Triệu Phong đã xây dựng được 11 làng sinh thái, với 723 hộ dân đang sinh sống ổn định, trồng được 2.500 ha rừng và tổ chức tốt mô hình nông - lâm kết hợp trên vùng cát đã bị bỏ hoang hóa lâu nay... Mới đây, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị đã tổ chức triển khai xây dựng các công trình chống lũ cho vùng trũng huyện Hải Lăng, có vốn đầu tư hơn 205,235 tỷ đồng. Công trình hoàn thành sẽ bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản cho hơn 64 nghìn người dân, chống ngập úng cho hơn 5.271 ha lúa hai vụ trong đê và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương...
Những hạn chế và giải pháp khắc phục
Trao đổi ý kiến với chúng tôi về kế hoạch điều tiết để bảo đảm nguồn nước tưới cho lúa, màu và các loại cây trồng khác trong vụ đông xuân năm nay và giải pháp để bảo vệ các công trình thủy lợi, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Quản lý khai thác công trình thủy lợi Quảng Trị Nguyễn Duy Thông cho biết: Công ty đang thực hiện có hiệu quả các giải pháp tưới tiêu hợp lý để bảo đảm cấp đủ nước tưới cho hơn 17.400 ha lúa vụ đông xuân trên địa bàn. Theo đó, ngay từ khi kết thúc vụ hè thu, công ty đã huy động cán bộ, công nhân viên các xí nghiệp trực tiếp về các địa phương sửa chữa những điểm kênh mương bị hư hỏng, sạt lở để chống nước bị rò rỉ, thất thoát ra ngoài, đồng thời chỉ đạo Xí nghiệp khai thác Công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn bơm phao cao-su để dự trữ thêm 10 triệu m3 nước ở đập tràn đầu mối. Hiện, toàn bộ diện tích lúa đông - xuân đang thời kỳ làm đòng trổ bông, công ty và các địa phương đang phối hợp chặt chẽ để có chế độ tưới hợp lý, bảo đảm đủ nước để cây trồng phát triển.
Tuy nhiên, theo Giám đốc Nguyễn Duy Thông, một số công trình thủy lợi ở Quảng Trị đã xuống cấp, không bảo đảm đủ nguồn nước và khó đứng vững trong mùa mưa bão...
Hiện nay, các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Quảng Trị chưa đủ nguồn nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp. Diện tích lúa, màu và các loại cây trồng khác cần nguồn nước tưới còn hàng chục nghìn ha, trong đó 2.500 ha cần tiêu nước đầu, cuối vụ 3.000 ha cần ngăn mặn, chống lũ tiểu mãn và 17.500 ha vùng cát ven biển cần có nguồn nước để cải tạo đất đưa vào phát triển kinh tế... Một số vùng ở miền núi, trung du và vùng cát không có khả năng xây dựng các công trình hồ chứa, đập dâng như vùng Cùa (huyện Cam Lộ), tây Gio Linh và một số vùng ở huyện miền núi Hướng Hóa, ÐaKrông... Vì vậy không có điều kiện để mở rộng diện tích lúa nước, cho nên tình trạng chặt phá rừng làm nương rẫy ở các địa phương này vẫn còn khá phổ biến, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa. Nhiều công trình thủy lợi xây dựng từ những năm trước nay đã xuống cấp, không bảo đảm đủ nguồn nước tưới theo thiết kế và an toàn khi mùa mưa lũ đến. Tình hình khí hậu, thời tiết mấy năm lại đây ở miền trung có những biến động thất thường đã làm ảnh hưởng đến các công trình tưới tiêu, các công trình phòng, chống lũ (chống xói lở bờ sông, bờ biển, đê điều). Vụ hè thu năm 2008, do hạn hán kéo dài, các công trình thủy lợi lớn trên địa bàn như đầu mối thủy nông Nam Thạch Hãn, hồ La Ngà, Bàu Nhum, Bảo Ðài, Kinh Môn, Hà Thượng, Trúc Kinh, Nghĩa Hy, Khe Mây, Ái Tử... mực nước xuống thấp, có nơi gần như cạn kiệt, nhất là hệ thống thủy nông Nam Thạch Hãn và trạm bơm Cam Lộ. Diện tích lúa bị hạn lên đến hàng nghìn ha, chỉ tính riêng hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng đã có 3.000 ha. Trước tình hình hạn hán, Công ty TNHH một thành viên quản lý khai thác công trình thủy lợi Quảng Trị đã chỉ đạo các đơn vị liên quan đắp chặn sông Hiếu để ngăn mặn cho vùng đầu mối trạm bơm Cam Lộ, tổ chức nạo vét dẫn dòng vào cống đầu mối công trình thủy nông Nam Thạch Hãn và kênh dẫn vào các trạm bơm, chỉ đạo các HTX ra quân đắp đập nội đồng và nạo vét kênh dẫn, tận dụng nước từ ao hồ, đầm, sông, bơm tát hợp lý, dẫn nguồn cứu lúa.
Ðể hệ thống thủy lợi phát huy hiệu quả tỉnh Quảng Trị đề ra một số giải pháp: Trước hết, tiếp tục nâng cấp một số công trình có dấu hiệu xuống cấp, đầu tư xây dựng mới các công trình thủy lợi vùng gò đồi và miền núi; khai thác triệt để công suất tưới tiêu của công trình thủy lợi, bảo đảm tưới tiêu ổn định cho 85% diện tích đất canh tác lúa, mở rộng diện tích tưới cho cây hoa màu, cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Xây dựng hệ thống đê bao chống lũ, chống úng, chống xói lở và ngăn mặn ven sông, ven biển.
Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương và xây dựng các công trình thủy lợi lớn như: Sa Lung, La Ngà; nâng cấp hệ thống thủy lợi Nam Thạch Hãn, hệ thống đê bao chống úng Hải Lăng, hồ Ðá Mài, Hà Thượng...
Ðẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi nhỏ ở miền núi để sớm đưa vào phục vụ tưới tiêu chuyển diện tích ruộng khô sang ruộng nước. Chú trọng phát triển hệ thống thủy lợi cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản theo định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi của tỉnh.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Nguyễn Ðức Cường, đối với vùng đồng bằng có diện tích đất canh tác tập trung, xây dựng các hồ đập loại vừa và lớn, kết hợp với trạm bơm khai thác nguồn nước tưới để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh các loại cây lương thực. Ở các vùng trũng, chú trọng khoanh vùng, đắp đê và xây dựng các trạm bơm, hệ thống kênh tưới tiêu, chủ động chống úng, lũ tiểu mãn và lũ sớm, đưa các giống lúa mới có năng suất cao vào gieo cấy. Ở vùng gò đồi, miền núi, do đất canh tác phân tán và địa hình đa dạng nên chọn giải pháp xây dựng đập dâng, hồ chứa vừa và nhỏ, trạm bơm nước để tưới cho cây trồng cạn. Ở vùng cát, xây dựng hệ thống thủy lợi kết hợp với sản xuất nông - lâm nghiệp để chống hiện tượng cát bay, cát lấp; cải tạo đất cát thành đất sản xuất có hiệu quả và bảo vệ môi trường sinh thái. Những địa phương có sông, suối đi qua cần xây dựng hệ thống đê, kè chống sạt lở đất, ngăn mặn và chống lũ tiểu mãn, lũ sớm đầu vụ bảo đảm an toàn cho thu hoạch lúa, màu cuối vụ.
Ðến nay, có thể khẳng định hệ thống thủy lợi ở Quảng Trị đã phát huy hiệu quả, cho dù một số công trình đang có những dấu hiệu xuống cấp do thời gian khai thác quá dài, trong điều kiện thiên tai thường xuyên tác động, nhưng như những mạch nguồn của sự sống, suốt mấy thập kỷ qua, các công trình thủy lợi cùng với hàng trăm nghìn mét kênh mương đã tỏa rộng, vươn dài, len lỏi, âm thầm làm tròn phận sự chuyển dòng nước ngọt về tận các chân ruộng, góp một phần quan trọng trong việc giữ vững và nâng cao năng suất cây trồng, cung cấp nguồn nước sạch cho dân sinh, cải thiện hệ thống giao thông nông thôn và bảo đảm môi trường sinh thái trên một khu vực nông thôn rộng lớn của tỉnh Quảng Trị.
Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN HAI