Nước ngầm, nguồn tài nguyên quý cần được khai thác hợp lý

Khai thác nước ngầm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt của người dân.
Khai thác nước ngầm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân.

Thực trạng thiếu nước sử dụng gây nên những khó khăn lớn trong cấp nước sinh hoạt cũng như phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở hai huyện đông dân cư này. Ðâu là giải pháp để khắc phục tình trạng nói trên?

Nguyên nhân mực nước ngầm bị hạ thấp

Trên địa bàn huyện Kim Sơn, theo thống kê của Trung tâm Y tế huyện Kim Sơn, tháng 8-2003, số lượng giếng đào: 9.641 chiếc; giếng khoan Unicef: 8.457 chiếc; giếng lọc: 1.416 chiếc; bể nước mưa: 23.213 chiếc. Theo kết quả điều tra, trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2003 số lượng giếng khoan Unicef đã tăng hơn 10 lần, đó là chưa kể tới các công trình cấp nước tập trung quy mô nhỏ và các loại hình sử dụng nước sạch khác cũng gia tăng đáng kể: Số lượng giếng đào tăng thêm gần 30%, số lượng bể nước mưa xây mới tăng thêm đến 64%.

Thực tế cho thấy, khi giếng khai thác tập trung tại thị trấn Bình Minh hút liên tục trong 8 giờ bơm thì mực nước từ -14,32 m đã hạ thấp xuống              - 24,82m, các giếng khoan nằm lân cận trong bán kính vài trăm mét có thể bị tụt xuống - 15,0m. Tại Hùng Tiến mực nước tính ban đầu là -8,29m sau khi bơm 7,5 giờ thì mực nước tụt xuống - 17,52 m.

Tại khu vực thị trấn Phát Diệm, vào giờ cao điểm, một số hộ dân có máy bơm nén khí cũng không thể hút nổi nước.

Theo các báo cáo  thống kê về tình hình nước sạch của các huyện thì hiện tượng "giếng treo" đã xảy ra vài năm nay và ngày càng diễn biến nhanh, lan rộng. Số lượng "giếng treo" ở mỗi huyện lên tới gần một nghìn giếng vừa gây khó khăn cho đời sống của người dân, gây lãng phí tài sản, lại vừa tăng khả năng gây suy thoái nguồn nước ngầm.

Nguyên nhân chính gây nên hiện tượng hạ thấp mực nước ngầm trước hết là do tình trạng khai thác nước ngầm quá mức. Về lý thuyết, mỗi tầng nước ngầm đều có trữ lượng nhất định và có khả năng được bổ cập bằng các nguồn nước bên ngoài, tuy nhiên, chúng đòi hỏi phải trải qua một thời gian địa chất lâu dài.

Khi mức độ khai thác lớn hơn khả năng bổ cập nước, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nước và gây nên hiện tượng hạ thấp mực nước trong tầng chứa. Thực tế khai thác nước ngầm ở hai huyện Kim Sơn và Yên Khánh phản ánh đúng thực trạng này.

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hiện tượng hạ thấp mực nước ngầm đó là giảm áp lực tầng chứa nước. Nước trong tầng chứa nước Pleistocen là tầng nước có áp lực, thậm chí ban đầu chúng có khả năng đưa nước chảy cao hơn mặt đất. Quá trình khai thác nước bằng các giếng khoan chọc thủng mái tầng chứa với mật độ dày đặc như hiện nay đã làm giảm áp lực trong nội tầng, cũng là giảm mực nước ngầm. Bên cạnh nguyên nhân gia tăng số lượng giếng khoan thì các giếng khoan hỏng hoặc ngừng hoạt động không được bít kín cũng là nguyên nhân gây mất áp tầng nước.

Bên cạnh hai nguyên nhân chính còn một nguyên nhân khác là do thiết kế lưu lượng khai thác không phù hợp tại các điểm khai thác nước tập trung cũng gây ra hạ thấp mực nước cục bộ. Hầu hết các giếng khoan trong vòng bán kính một vài trăm mét đều bị tụt mức nước thậm chí "giếng treo" khi hệ thống bơm hút của các trạm khai thác nước tập trung hoạt động. Các giếng khoan này chỉ hoạt động lại được sau nhiều giờ đủ để phục hồi mực nước ở mức có thể khai thác được.

Giếng khoan Unicef của nhiều khu vực dân cư hoặc nhiều hộ dân không sử dụng được là do các nguyên nhân khác như: Giếng khoan đã thi công không đúng kỹ thuật, ống lọc nước đặt không đúng vị trí tầng cát chứa nước, bị hư hại không sửa chữa kịp thời, hoặc không được thổi rửa bảo dưỡng trong quá trình sử dụng.

Giải pháp quản lý và bảo vệ nguồn nước ngầm

Những đề xuất giải pháp khắc phục và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất của hai huyện Kim Sơn và Yên Khánh có những vấn đề liên quan trực tiếp đến hiện tại, song cũng có những nội dung mang tính định hướng lâu dài, cần phải phấn đấu thực hiện và cũng là kinh nghiệm cho các vùng khác đang mắc phải nguyên nhân tương tự. Ðể triển khai hài hòa và phù hợp tình hình thực tế phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ môi trường của địa phương, chúng tôi cho rằng cần thiết phải thực hiện các giải pháp:

Khi khoan giếng cần chọn vị trí cách xa khu chăn nuôi, công trình vệ sinh, rãnh thoát nước thải tối thiểu là 7m. Các lỗ khoan hỏng phải được lấp lại đúng quy định để tránh hiện tượng thông tầng gây xâm phạm mặn cùng các chất bẩn xuống tầng nước đang khai thác. Thi công khoan giếng phải bảo đảm đúng kỹ thuật và môi trường để tránh sự thẩm thấu các chất gây ô nhiễm dọc vách giếng xuống dưới.

Gạch hóa và bê-tông hóa các chuồng, trại chăn nuôi, các khu vệ sinh trong các hộ gia đình. Những công trình này nên bố trí xa các lỗ khoan hiện đang khai thác nước. Gạch hóa hoặc bê-tông hóa các cống, rãnh thoát nước thải trong mỗi gia đình đến các hệ thống chung của các cụm dân cư và đến các công trình mương máng thủy lợi.

Ðối với các cơ quan, xí nghiệp chế biến công nghiệp hoặc thực phẩm, nhất thiết phải xây dựng các bể chứa nước thải và áp dụng công nghệ xử lý thích hợp trước khi đưa thải vào các hệ thống thoát nước chung của khu vực. Giếng khơi, giếng lọc của các hộ gia đình cần phải được kiên cố hóa bằng gạch hoặc ống bê-tông đúc sẵn ở phần dưới mặt đất. Phần trên mặt đất cần xây dựng tường bao với độ cao thích hợp phòng chống tràn khi mưa lũ và tai nạn rủi ro với người và gia súc. Giáo dục ý thức giác ngộ, huy động dân cư dọn vệ sinh định kỳ đường làng, ngõ xóm, hệ thống cống rãnh; thu gom rác thải vào những nơi quy định để xử lý bằng các giải pháp công nghệ phù hợp thực tế của địa phương.

Nước ngầm là tài nguyên quý. Bảo vệ tài nguyên nước ngầm phải được chú trọng trong cả hai khâu khai thác và sử dụng. Vì vậy cần phải tuyên truyền và giáo dục cho mọi tổ chức, cho mỗi cá nhân có ý thức và các hành động cụ thể về vấn đề này. Tăng cường sự quan tâm của các cấp chính quyền về cả vật chất lẫn tinh thần trong các vấn đề liên quan bảo vệ tài nguyên nước ngầm. Về lâu dài trên phạm vi các cụm dân cư nên xây dựng các cơ sở khai thác tập trung, nước có bể chứa và được xử lý bảo đảm nguồn nước sạch cho người dân.

Ðối với các thị trấn lớn cần tăng cường khả năng cấp nước của các nhà máy xử lý nước mặt để phục vụ đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt của nhân dân nội thị và ven đô. Ðối với các khu vực được xác định không có nước ngầm cần thiết phải khuyến cáo người dân không tiếp tục khoan nước, để khắc phục tình trạng thiếu nước, nên xây dựng các bể chứa nước mưa theo phương pháp truyền thống. Từng bước xây dựng và hoàn thiện quy hoạch khai thác nước ngầm cụ thể cho từng khu vực trên cơ sở tiềm năng khai thác hiện có. Việc khai thác nước ngầm đòi hỏi phải có luận chứng kinh tế - kỹ thuật, được cấp thẩm quyền phê duyệt, đi đôi với việc bảo vệ và cải thiện nguồn nước.

Cần tổ chức thanh tra, giám sát thường xuyên, nhằm hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng khai thác nước tùy tiện ở trong vùng như hiện nay. Ngăn chặn kịp thời và trong các trường hợp cần thiết phải xử  lý nghiêm các tổ chức hoặc cá nhân vi phạm những quy định về khai thác và bảo vệ tài nguyên nước, gây tổn thương đến tầng chứa nước hoặc làm ô nhiễm nước ngầm.

NGUYỄN NGỌC QUỲNH
Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Bình

Có thể bạn quan tâm