Nghệ sĩ đến đúng giờ hẹn trong bộ quần áo giản dị, trẻ hơn nhiều so với tuổi 54 của mình. Lịch lãm, tinh tế và cởi mở, trong vòng một giờ đồng hồ, ông vui vẻ trả lời tất cả mọi câu hỏi của các phóng viên.
Ông đặc biệt muốn dành thời gian để trò chuyện về Cuộc thi piano quốc tế lần thứ hai vừa kết thúc. Bởi đó cũng chính là hoạt động quan trọng mà ông muốn góp sức mình, để phát hiện và đào tạo những mầm tài năng piano trong tương lai. Hơn một nửa thành viên BGK – những người mà chỉ nhìn vào “lý lịch nghệ thuật” cũng đủ thấy tầm cỡ và uy tín của họ trên thế giới – và phần lớn các thí sinh nước ngoài tham dự cuộc thi là do ông mời. Mọi người nói vui là ông “cõng rắn cắn gà nhà”, bởi trong số 10 thí sinh nước ngoài tham dự thì 8 người đoạt giải. Tuy nhiên, có một điều đáng mừng, theo ông, về mặt tài năng, sự chênh lệch giữa thí sinh Việt Nam so với thí sinh ngoại quốc không quá lớn. “Cái mình kém hơn là sự chuẩn bị, sự học hỏi và độ chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp là điều nên bàn tính cho tương lai của thế hệ trẻ Việt Nam”.
Chuyên nghiệp phải đồng bộ
- Theo ông, để khắc phục dần sự thiếu tính chuyên nghiệp này, chúng ta nên bắt đầu từ đâu?
Nhìn bây giờ thì ai cũng có thể thấy cơ sở vật chất– tạm gọi là “phần cứng” - của ta như vậy là ổn, không phải nước nào trường lớp cũng được khang trang như thế này. Nhưng còn “phần mềm” - chương trình giảng dạy, đào tạo, đặc biệt là hoạt động giao lưu cần được chú trọng. Theo tôi, mình nên học hỏi ở bên ngoài, vì bây giờ mọi thứ thay đổi nhanh lắm, nhãng đi một tí là mình lạc hậu rồi. Bất cứ trường chuyên nghiệp nào cũng không thể thiếu những hoạt động giao lưu: Khoá Master Class chẳng hạn, nên mời các thầy quốc tế giảng dạy, cho học sinh biểu diễn giao lưu với nước ngoài… Cơ sở vật chất, giáo trình, sách vở giáo trình giờ có lẽ nếu muốn thay đổi cũng không khó, muốn hiện đại là có ngay, nhưng vấn đề là ai sẽ dạy cái giáo trình đó… Ở đây tôi muốn nói là sự đồng bộ.
Tuy nhiên, khó để “cải cách” một lúc toàn bộ cả hệ thống. Mình nên bắt đầu từ những việc nhỏ. Có một việc có thể làm được mà không mất xu nào, theo tôi đó là sự tập trung. Chính vì mình không tập trung, lẫn lộn giữa cái này cái nọ, mỗi thứ một tí không có cái gì tuyệt đối nên tính chuyên nghiệp không cao. Thí dụ, việc tập đàn, cần một ngày hai tiếng, thà là cứ tập một tiếng thôi, nhưng phải quên bẵng hết mọi thứ, tập trung quên trời quên đất để tập, xong rồi thì lúc ấy mới làm gì thì làm. Ý tôi muốn nói là chúng ta hãy sửa những thói quen làm việc này một tí việc kia một tí, rồi chẳng việc gì ra việc gì. Sự tập trung này thì không mất xu nào, không tốn kinh phí, nhưng sẽ mang lại hiệu quả.
- Theo ông, thế hệ trẻ chơi nhạc cổ điển Việt Nam hôm nay có thay đổi so với thời của ông ngày xưa nhiều không?
-Thay đổi nhiều chứ. Thời của tôi xưa lắm rồi. Tôi nhớ lại thời đó, có nhiều cái muốn cũng không thể làm được. Điều kiện học vô cùng khó khăn. Chẳng hạn, cái cơ bản nhất là không có điện, đơn giản là làm sao nghe băng đĩa. Những hoạt động biểu diễn hầu như không có, chủ yếu “đánh cho nhau nghe” thôi. Khi tôi 7 tuổi đi sơ tán ở Hà Bắc, đàn piano thì cồng kềnh, phải nhờ trâu bò kéo đi. Mang được vài cái, lớp học nhạc phải chia nhau tập, tranh nhau tập thì đúng hơn. Sách đàn cũng vậy, hồi đó cả trường chỉ có vài quyển, đứa nào học phải tự mày mò chép lại bằng tay. 7 tuổi phải ngồi tự chép những bản giao hưởng dài dằng dặc. Tôi nhớ, hồi đó có bản concerto mà tôi rất mê, đó là Concerto Fantasy của Tchaikovsky - cả nước chỉ có một bản nằm ở Thư viện Quốc gia. Thế là ngày ngày tôi phải đến Thư viện Quốc gia, ngồi chép ròng rã bằng tay hai tháng trời mới xong. Nhưng khi mình ngồi chép như vậy thì lại hết sức quý giá, vì chép xong thì gần như mình cũng học thuộc bản nhạc. Hồi đó, tôi hầu như không được nghe một bản nào chuẩn cả, vì băng đĩa rất ít ỏi. Tôi nhớ những năm 69, 70, ở Hà Nội mỗi tuần có điện một lần. Chúng tôi phải tụ tập nhau lại để tranh thủ nghe, vì không đủ thời gian để chia ra cho từng đứa. Bây giờ thì, khỏi phải nói, google, Youtube… có sẵn hết, chỉ sợ không tập trung thôi. Chính sự quá đẩy đủ, phong phú bây giờ mà người học có khi lại như lạc vào khu rừng không biết bắt đầu từ đâu. Hồi ấy, mỗi khi có biểu diễn thì phòng hòa nhạc đầy ắp học sinh đến nghe, không cần ai hô hào, ra lệnh. Nói chung tinh thần hồi đó khác bây giờ rất nhiều. Nghĩ lại, thời của tôi có nhiều động lực để đi đến thành công.
- Môi trường chuyên nghiệp, sự khổ luyện có thể làm nên thành công?
- Thực ra đối với nghề này, dù có lao động đến nai lưng ra thế nào mà không có tài năng thì cũng không thành công được. Học hành kỹ thuật hết sức quan trọng, nhưng để có được thành công phải có tài năng. Nhưng có tài năng mà không được rèn luyện, không đi đúng hướng thì tài năng cũng có thể bị thui chột.
- Ông có nhìn thấy tài năng nào trong tương lai của Việt Nam qua cuộc thi này?
- Thú thực là tôi cũng chỉ nghe theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa’, được một ít ở vòng 1, chủ yếu là thí sinh phía bắc, nên không thể đưa ra cái nhìn tổng quát được. Nhưng tôi thấy có những em có tiềm năng. Chỉ mới như là những viên đá quý, cần phải mài dũa đúng cách và kỳ công… Còn nếu nói về thế hệ người chơi piano trẻ tuổi hôm nay, tôi đặc biệt hy vọng vào Lưu Hồng Quang.
Không dám so tôi với ngôi sao nhạc pop !
- Được biết, sắp tới ông có lịch diễn ở Hà Nội và đó là một chương trình rất lớn?
- Đúng thế. Có thể nói chương trình lớn nhất trong sự nghiệp của tôi chính là vào tháng Giêng tới ở Việt Nam đấy. Tôi sẽ phải “chạy maratong” 5 bản concerto của Beethoven với Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam. Bình thường thì với Dàn nhạc Giao hưởng người ta chỉ chơi 1 bản concerto một buổi tối thôi. Tôi phải chơi 5 bản liền trong hai buổi. Đây cũng là một thử thách lớn riêng đối với tôi. Đây là chương trình lớn của mùa diễn này và tôi diễn ở nhiều nước. Tuần sau bắt đầu ở Brazil rồi, đỉnh điểm là ở Nhật Bản vào tháng 11 tới, sau đấy là Việt Nam, rồi sang Nga, rồi có thể sang Đài Loan… Đấy, bây giờ ngồi với các bạn đây và mai tôi đã phải lên máy bay rồi nhưng ngay tối nay tôi phải ngồi vào đàn để tập. Vì trong năm nay tôi toàn chơi Debussy (Claude Debussy), giờ phải tập lại Beethoven.
- Ông có thể chia sẻ một chút về thù lao của mình từ hoạt động âm nhạc?
- Có thể nói là nó cũng uyển chuyển thôi. Nếu đưa mức thù lao của tôi ở Nhật Bản mà áp dụng cho Việt Nam chẳng hạn, thì không thể. Mà nếu tôi sống ở Việt Nam thì chắc cũng thất nghiệp luôn quá. Nếu so cổ điển với nhạc pop chẳng hạn, nó khác xa lắm. Nếu nhìn so tôi với ngôi sao nhạc pop “triệu tỷ” thì không dám đâu, chắc là bị loại ngay từ vòng đầu (cười).
- Có một thực tế là những người chơi nhạc cổ điển có tài năng rất hiếm cơ hội biểu diễn trong nước. Ở nước ngoài thì sao, có nhiều cơ hội cho những học sinh của ông không?
- Thực ra ở lại nước ngoài không dễ. Làm việc trong bộ môn nghệ thuật này trụ lại được hầu như rất ít. Cơ hội biểu diễn càng khó khăn. Phải đạt thành tích gì đó, ví như đoạt giải quốc tế chẳng hạn, thì mới có cơ hội được mời biểu diễn với các dàn nhạc lớn. Rất tiếc, trong lớp tôi, những người được mời đi biểu diễn như vậy mới chỉ có sinh viên ngoại quốc như Trung Quốc, Nhật Bản. Ở Việt Nam thì càng có cái khó, vì những em tài năng cũng chỉ biểu diễn một buổi, chứ hai ba buổi thì cũng không có người nghe. Ngay cả tôi cũng vậy thôi. Tôi cho rằng, ngoài việc đào tạo và nâng đỡ tài năng, thì chúng ta còn phải nghĩ đến chuyện ‘‘đào tạo” người nghe nữa. Khán giả phải đào tạo từ thế hệ trẻ. Như đêm diễn của tôi ở Đài Loan vừa rối, có đến 80% là khán giả trẻ, cảm giác thích lắm. Có những em bé ngồi im phăng phắc, thậm chí tôi không biết trong phòng có trẻ em nhiều như vậy. Ở Việt Nam, tôi biết Dàn nhạc Giao hưởng những năm gần đây có những chương trình đưa âm nhạc cổ điển đến các vùng xa, hay dẫn giải âm nhạc cổ điển đế công chúng quảng đại, tôi cho rằng những hoạt động như vậy rất nên được khuyến khích và hỗ trợ.
Làm việc ở Việt Nam là một phần quan trọng của cuộc đời tôi
- Nhờ đâu mà album mới vừa rồi của ông được phát hành ở Việt Nam?
- Thực ra toàn bộ băng đĩa của tôi ký hợp đồng thu âm với hãng Victor của Nhật Bản đã hơn 25 năm nay. Hãng này bán bản quyền cho các nước khác nhau. Album vừa rồi được phát hành ở Việt Nam là do Hãng Phương Nam của Việt Nam được nhượng bản quyền từ Nhật Bản, chứ không phải tôi trực tiếp hợp đồng thu âm với Phương Nam. Điều đó cũng rất tốt, bởi nếu mua album gốc từ bên Nhật Bản thì giá thành rất cao. Việc Phương Nam muốn mua bản quyền băng đĩa của tôi từ hãng Victor là điều mà tôi rất vui, không phải với chỉ với bản thân nghệ sĩ mà còn với cả đời sống âm nhạc trong nước.
- Được biết, quỹ thời gian giảng dạy, biểu diễn của ông luôn luôn kín, vậy ông có thể cho biết vì sao ông luôn dành thời gian cho Cuộc thi piano quốc tế ở Hà Nội và cũng luôn có suất học bổng cho các thí sinh tài năng?
- Đấy hoàn toàn là tự nguyện, là những hoạt động mà tôi tự thấy mình là một người đi trước có thể làm cho thế hệ sau. Việc này quan trọng đối với tôi và tôi đã làm nó hàng chục năm nay, bằng cách này hay cách khác. Cách đây mười mấy năm, tôi cùng một nhóm bạn Nhật Bản lập ra một Hiệp hội âm nhạc, có một số giúp đỡ cho Nhạc viện Hà Nội. Đây chính là nơi mà chúng tôi tặng cây đàn Stairway đầu tiên. Sau đó thì vận động Chính phủ Nhật Bản tài trợ hơn 100 nghìn đô la trong nguồn vốn ODA cho Thư viện ở đây mua sách đàn. Rồi chúng tôi tổ chức thu thập đàn cũ của các cá nhân ở Nhật Bản chở về tặng Nhạc viện Hà Nội, Huế… Đó là những hoạt động nhiều năm trước, khi cơ sở vật chất trong nước còn thiếu thốn. Giờ phần cứng trong nước có vẻ khá lên rồi, thì chuyển sang phần mềm. Chúng tôi trao học bổng cho các em học trong nước và học bổng đi các trại hè nước ngoài. Chẳng hạn, năm ngoái chúng tôi tặng học bổng trại hè ba tuần ở Nhật Bản cho Lưu Hồng Quang. Đáng mừng sau đó, Lưu Hồng Quang đoạt giải nhất cuộc thi piano trẻ quốc tế Lev Vlassenko và nhiều giải phụ khác. Mỗi lần về Việt Nam, tôi về cũng để ý vào khoa piano dạy master class, lecture… cho sinh viên ở đây. Trong cuộc thi này, tôi không giúp được gì về mặt tổ chức trong nước, nên tôi giúp tổ chức về mặt chương trình, mời BGK, và mời cả thí sinh.
Hiện giờ, quỹ thời gian của tôi chia cho mấy việc chính: giảng dạy, biểu diễn, làm giám khảo các cuộc thi. Tôi luôn có việc ở nhiều nước trên thế giới, nhưng tôi coi những việc có thể làm ở Việt Nam là một phần quan trọng.
- Được biết, hiện giờ ông mang quốc tịch Canada, ông có thể chia sẻ một chút về cuộc sống của mình bên đó?
- Tôi mang quốc tịch hai nước, Canada và Việt Nam. Tôi ở Nhật Bản 4 năm, từ năm 1987 đến 1991. Đến năm 1991 thì tôi sang Canada. Nói là sống ở Canada, nhưng tôi ở đó được mấy ngày. Nói chung, mỗi năm tôi chỉ ở Canada được khoảng 4 tháng, nhưng là thời gian rải rác. Trong lớp piano mà tôi dạy ở Đại học Montréal, Canada nhiều năm đều có học sinh Việt Nam đi theo diện học bổng của Nhà nước. Tôi không dạy nhiều, thường chỉ có 6 - 7 em trong một lớp và tôi luôn giữ chỗ cho người Việt Nam.
Không bao giờ “hy sinh” tự do
- Mẹ ông vẫn thường xuyên ở bên ông chứ? Hiện giờ bà cũng sống ở Canada?
- Má tôi cũng không ở hẳn Canada với tôi mà thường xuyên bay đi bay lại. Năm nay má tôi 94 tuổi nhưng vẫn “bay vù vù”. Vừa rồi má tôi cùng tôi bay từ Canada trở về đây. Cứ trời bên kia mà lạnh là má tôi lại về Việt Nam. Cũng có những lúc má tôi ở một mình bên đó, khi tôi đi biểu diễn. Cũng có bạn bè, học trò qua lại, nhưng tính má tôi vốn thích độc lập và yên lặng, tôn trọng tự do. Vậy nên nhiều khi tôi lo má tôi ở một mình buồn, mời bạn bè đến nhà cho bà vui nhưng bà lại không thích!
- Còn ông, sự di chuyển nhiều và liên tục khắp nơi trên thế giới như vậy có ảnh hưởng sức khỏe và việc biểu diễn?
- Cũng là một chuyện đấy. Không dễ dàng như những năm trước, cái thời U20, rồi 30, 40 còn đỡ. Bây giờ là U60 rồi, cũng có những khó khăn. Không phải vì ngồi máy bay ê ẩm, mà chính thay đổi múi giờ liên tục mới là mệt, mãi không thích nghi được. Áp lực của nghề này rất lớn, khán giả chỉ cần biết là khi anh ra sân khấu thì cứ phải chơi hay, chứ làm sao biết nhiều khi người nghệ sĩ phải chịu đựng những căng thẳng mệt mỏi về thể lực, chưa nói tới nhiều khi còn chịu áp lực về tinh thần… Tôi nhớ lần đi biểu diễn ở Nhật Bản, đêm đó tôi phải chơi một bản rất vui với dàn nhạc của Berlin, thì buổi chiều, tôi nhận được tin một người rất bạn thân của tôi bị bắn chết ở nước ngoài. Đó là một cú sốc không thể nào chịu đựng được. Nếu tôi bị sốt, bị đau cái gì về cơ thể, thì bác sĩ có thể chứng nhận cho tôi để hoãn đêm diễn, nhưng cái đau đớn về tinh thần thì không ai có thể chứng thực được. Tôi bắt buộc phải vượt qua và phải biểu diễn trọn bản nhạc vui tươi đêm ấy. Cuộc đời có những lúc như thế.
- Những khi không chơi nhạc, anh thư giãn như thế nào?
- Thư giãn thì ở Việt Nam rất hấp dẫn, có thể nói là “miễn bàn” (cười). Nhưng kỳ này thì quên vụ hấp dẫn đi vì thời gian quá ít. Những lần khác thì sau công việc, tôi thường dành ra vài ngày trốn biệt luôn chẳng ai biết đâu mà tìm. Nói rỉ tai nhé, tôi rất mê Côn Đảo, thích sự vắng lặng, cổ kính. Không khí ở đó làm cho tôi thấy lại bóng dáng của Hà Nội thời tôi còn nhỏ. Nhưng nói chung, thời gian thư giãn của tôi cũng ít. Tôi cũng mê phim ảnh.
- Ông mê phim ảnh loại nào?
- Không phải Hollywood, mà là điện ảnh của Âu châu cổ điển, thời những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước, của Pháp, Ý. Tôi thích Luchino Visconti và Pier Paolo Pasolini. Tôi đặc biệt thích “lăn đất” Visconti. Cách dùng âm nhạc trong phim của ông làm cho tôi thấy âm nhạc được hình ảnh tôn lên, làm cho mình xúc động.
- Với cá nhân ông, cuộc sống của một nghệ sĩ piano tài năng có hạnh phúc không?
Nói chung bao giờ cũng có hai mặt. Điều mà tôi vui là vai trò của tôi ở nước ngoài, có thể làm gì đó để thế giới người ta biết đến Việt Nam. Một điều nữa, vinh dự vì tôi là người đi đầu. Đi đầu bao giờ cũng khó khăn và không tránh khỏi vấp váp. Lúc khởi đầu của sự nghiệp - những năm 80 sau cuộc thi Chopin, cực kỳ khó khăn và tôi cũng vấp váp nhiều lắm, nhưng may đã tồn tại được. Còn nói về cảm giác cá nhân thì tôi là người hạnh phúc. Tôi không bao giờ hy sinh tự do của mình, không có giá nào có thể mua được tự do của tôi. Thôi, đến giờ tôi phải đi rồi, hẹn gặp vào đầu năm tới.
Cám ơn nghệ sĩ!