Trong 30 năm qua, ÐBSCL có sản lượng lúa tăng nhanh dựa cả vào hai yếu tố: tăng diện tích và tăng năng suất. Tổng diện tích đất canh tác lúa của vùng sau giải phóng có hơn hai triệu ha, trong đó 70% (1,5 triệu ha) là ruộng một vụ. Nhờ việc đầu tư khai hoang, làm thủy lợi, tiêu úng xổ phèn, cải tạo đất, cho nên đã biến hàng trăm nghìn ha đất hoang hóa hoặc chỉ làm một vụ lúa nổi bấp bênh thành những vùng đất lúa hai vụ.
Tính riêng mười năm (1990-1999) diện tích đất canh tác lúa toàn vùng đã tăng bình quân gần 100 nghìn ha/năm, không những bù đắp diện tích lúa mất đi do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa xây dựng khu dân cư mới và hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông, thủy lợi, mà còn làm tăng diện tích đất lúa toàn vùng.
Ðến năm 2004, diện tích đất canh tác lúa vùng này là 2,1 triệu ha, diện tích gieo trồng gần 3,9 triệu ha, chiếm 50% tổng đất lúa cả nước. Cơ cấu đất cũng đã thay đổi theo hướng tích cực: Hầu hết đất lúa hiện nay của vùng là đất hai, ba vụ lúa, đất một vụ còn không đáng kể. Vùng Ðồng Tháp Mười đã khai hoang 34 nghìn ha đất mới và chuyển vụ hàng nghìn ha từ một vụ lên hai vụ lúa ăn chắc. Chính tăng vụ là nguyên nhân chủ yếu làm tăng diện tích gieo trồng lúa của vùng này từ năm 1986 đến năm 2000.
Từ năm 2001 đến năm 2004, thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng "đất nào cây ấy" cho nên diện tích lúa vùng này giảm dần với quy mô hàng chục nghìn ha/năm. Một bộ phận đất lúa một vụ vùng bán đảo Cà Mau chuyển sang nuôi trồng thủy sản, một số nơi như: vùng Ðồng Tháp Mười, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An... chuyển sang trồng cây lâm nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng cỏ nuôi bò sữa có lợi hơn.
Trong bối cảnh đó, tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh tăng năng suất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật là phương hướng cơ bản để tăng sản lượng và chất lượng lúa gạo trong vùng. Tăng vụ lúa đông xuân và hè thu là xu hướng phổ biến ở ÐBSCL trong 30 năm qua và trở thành yếu tố cơ bản để vừa tăng diện tích vừa tăng năng suất và sản lượng lúa.
Nếu năm 1976, toàn vùng mới làm thử nghiệm 189 nghìn ha lúa đông xuân, thì năm 2004 lên tới hơn 1,5 triệu ha, tăng gần 10 lần năm 1976. Diện tích lúa hè thu tăng với tốc độ chậm hơn: Từ 442 nghìn ha năm 1976 lên 1,9 triệu ha năm 2004. Nguyên nhân của tăng vụ lúa đông xuân và hè thu ở vùng này là kết quả của quá trình đầu tư làm thủy lợi, cải tạo đất, thau chua, rửa phèn bảo đảm nước ngọt cho cây lúa sinh trưởng và phát triển.
Cùng với thủy lợi, nhiều loại giống lúa mới ngắn ngày, năng suất cao, chịu sâu bệnh, cũng đã góp phần tích cực vào quá trình tăng vụ và chuyển vụ lúa trong vùng. Diện tích lúa mùa năng suất thấp và bấp bênh giảm dần từ 1,43 triệu ha năm 1976 xuống còn hơn 400 nghìn ha năm 2004.
Trong 30 năm qua, nhờ tăng vụ và chuyển vụ, diện tích lúa đông xuân và hè thu toàn vùng tăng thêm gần 2,8 triệu ha, diện tích lúa mùa giảm 800 nghìn ha, chung cả năm diện tích lúa tăng thêm hai triệu ha. Tăng vụ và chuyển vụ không chỉ làm tăng thêm diện tích mà còn tạo điều kiện để thâm canh, tăng năng suất lúa toàn vùng.
Tính chung 30 năm, năng suất lúa bình quân toàn vùng tăng thêm gần 26 tạ/ha, làm tăng thêm gần tám triệu tấn lúa, chiếm 50% tổng sản lượng lúa tăng thêm của toàn vùng. Sự thay đổi mùa vụ ở ÐBSCL đi cùng với đổi mới cơ cấu giống lúa và quy trình sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất. Nhờ đó, năng suất lúa từng vụ và cả năm ở vùng này tăng dần cùng với quá trình tăng vụ và chuyển vụ. Không những tăng nhanh về sản lượng mà chất lượng lúa gạo ở vùng này không ngừng tăng. Các loại lúa đặc sản có chất lượng cao như IR64, OM1490, OM2031, VND95-20, MTC250, IR62032, lúa nàng thơm Chợ Ðào, Jasmine, v.v. phục vụ xuất khẩu ngày càng mở rộng, chiếm tỷ trọng lớn về cả diện tích và sản lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Cùng với lúa, ÐBSCL còn phát triển mạnh cây ăn quả, thế mạnh tuyệt đối của vùng. Năm 2004, toàn vùng có hơn 252 nghìn ha cây ăn quả đạt sản lượng hơn ba triệu tấn quả, tăng gấp hai lần năm 1976. Một số loại trái cây chất lượng cao, nổi tiếng như nhãn tiêu, xoài cát (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang), v.v. phát triển thành những vùng chuyên canh, tập trung, quy mô lớn, sản lượng hàng hóa nhiều, theo mô hình kinh tế trang trại gia đình đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Vùng trồng cam, quýt tập trung ở tỉnh Cần Thơ, hằng năm đã cung cấp cho thị trường gần 100 nghìn tấn quả có chất lượng, riêng Bến Tre là 90 nghìn tấn quả. Cùng với lúa và trái cây, ÐBSCL còn có thế mạnh về cây công nghiệp ngắn ngày, nhất là mía, đậu tương, lạc. Năm 2004, diện tích mía toàn vùng đạt 73 nghìn ha, năng suất bình quân 73,6 tạ/ha và sản lượng đạt hơn 5,4 triệu tấn, tăng gấp 4,4 lần; 51% và gấp 6,6 lần so năm 1996. Ðã hình thành vùng sản xuất mía tập trung gắn với công nghiệp chế biến đường tại bốn tỉnh trọng điểm là Cần Thơ, Bến Tre, Sóc Trăng và Long An. Với mức sản xuất như năm 1999, sản lượng mía ở vùng này chiếm 46% sản lượng mía của các tỉnh miền nam (13,9 triệu tấn) và bằng 34% sản lượng mía cả nước (17,8 triệu tấn); hai tỷ lệ tương ứng của năm 1976 là 39,2% và 32,2%. Như vậy, ÐBSCL vẫn đứng đầu trong tám vùng về sản lượng mía và có vị trí quyết định trong thực hiện chiến lược sản xuất một triệu tấn đường của cả nước.
Chăn nuôi lợn và gia cầm cũng là một thế mạnh của nông nghiệp vùng ÐBSCL. Trước giải phóng, tập quán chăn nuôi lợn thịt và vịt đàn, vịt thời vụ đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Sau giải phóng, xu hướng này tiếp tục phát triển toàn diện hơn. Thực tế cho thấy, với phương thức chăn nuôi hàng hóa nên trọng lượng xuất chuồng bình quân một con gia súc và gia cầm đạt mức cao so với mức trung bình của cả nước. Ðối với lợn thịt: ÐBSCL là 110 kg, so với 70 kg của cả nước và 80 kg ở vùng đồng bằng sông Hồng. Do vậy, đàn lợn ÐBSCL tuy chỉ chiếm 14,3% nhưng trọng lượng xuất chuồng chiếm tới 23,8% tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng của cả nước hằng năm.
Tình hình tương tự cũng diễn ra đối với đàn gia cầm và chăn nuôi khác. Số lượng gia cầm trong vùng so với cả nước chỉ chiếm tỷ lệ 22,3% nhưng thịt xuất chuồng chiếm 30% và trứng gia cầm chiếm 24% của cả nước. Sau 30 năm giải phóng, đàn lợn tăng ba lần, đàn gia cầm tăng 3,9 lần và thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 4,25 lần. Không những tăng về số lượng mà cơ cấu và chất lượng thịt, trứng cũng có nhiều chuyển biến tích cực, theo hướng sản xuất gắn với thị trường. Một số sản phẩm chăn nuôi trong vùng đã được xuất khẩu như thịt lợn, thịt gia cầm, trứng vịt muối...
Ðể nông nghiệp ÐBSCL phát triển nhanh hơn và vững chắc hơn trong thế kỷ 21, mãi xứng đáng là vựa lúa số một của cả nước, bên cạnh sự nỗ lực chủ quan của các địa phương và bà con trong vùng, rất cần sự quan tâm và hỗ trợ tích cực của Nhà nước về cơ chế, chính sách, vốn đầu tư, khoa học - công nghệ và thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa trong nước và ngoài nước. Với truyền thống 30 năm hào hùng, tin tưởng năm 2005 và các năm tiếp theo, nông nghiệp ÐBSCL sẽ còn tiếp tục phát triển toàn diện và tăng trưởng cao, một mô hình tiêu biểu về sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.