Trong bối cảnh đó, công tác đối ngoại của Ðảng và Nhà nước đã được triển khai tích cực, chủ động, có trọng tâm trọng điểm và đạt được những kết quả rất quan trọng góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng vị thế của nước ta trên trường quốc tế lên một tầm cao mới; tranh thủ được nguồn lực đáng kể từ bên ngoài, phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
1. Ngoại giao chính trị diễn ra sôi động với các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội nước ta đến các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng nhất và các nước bạn bè truyền thống.
Quan hệ hữu nghị đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Cam-pu-chia tiếp tục được củng cố và thúc đẩy. Quan hệ với Trung Quốc duy trì ổn định với nhiều hoạt động tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo hai Ðảng, hai nước và giao lưu nhân dân. Quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được đẩy mạnh. Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển tích cực trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, giáo dục - đào tạo, dầu khí, an ninh, quốc phòng. Với những kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm Ấn Ðộ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 11-2013), quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Ðộ được tăng cường trên bốn trụ cột kinh tế - thương mại, an ninh - quốc phòng, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và văn hóa.
Quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản tiếp tục được tăng cường với nhiều hoạt động trao đổi đoàn, tiếp xúc cấp cao và triển khai các hoạt động Năm Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản 2013. Quan hệ đối tác chiến lược với Hàn Quốc có nhiều tiến triển sau chuyến thăm chính thức Việt Nam (9-2013) của Tổng thống Hàn Quốc Pắc Cưn Hê. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, hai bên đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ (trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tháng 7-2013), tạo khuôn khổ cho quan hệ hai nước trong thời gian tới. Quan hệ với Liên hiệp châu Âu (EU) và các nước châu Âu có bước phát triển về chất với chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Vương quốc Bỉ và EU, thăm cấp nhà nước CH I-ta-li-a và thăm Vương quốc Anh (16 - 24-1). Chuyến thăm chính thức Ðức của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (3-2013), chuyến thăm chính thức Pháp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (9-2013). Quan hệ của ta với các nước bạn bè truyền thống ở khu vực châu Á, Ðông Âu, Trung Ðông - châu Phi và Mỹ la-tinh được đẩy mạnh với việc trao đổi nhiều đoàn cấp cao và có nội dung hợp tác thiết thực.
Năm 2013 là năm triển khai mạnh mẽ đưa quan hệ hợp tác với các nước, đặc biệt là các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; là năm có các chuyến thăm cấp cao nhất giữa Việt Nam với tất cả các nước đối tác quan trọng; là năm xác lập thêm năm quan hệ đối tác chiến lược và hai quan hệ đối tác toàn diện, đến nay Việt Nam đã thiết lập được 13 quan hệ đối tác chiến lược và 11 quan hệ đối tác toàn diện, trong đó có tất cả năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Như vậy, có thể nói Việt Nam đã cơ bản thể chế hóa khuôn khổ quan hệ với toàn bộ các đối tác quan trọng, tạo dựng khuôn khổ quan hệ sâu rộng, ổn định và bền vững với các nước lớn, các nước láng giềng quan trọng và những nước có vị trí, ảnh hưởng lớn trên thế giới.
2. Năm 2013 cũng chứng kiến những hoạt động sôi động của ngoại giao đa phương trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dự Hội nghị cấp cao APEC 21 và Hội nghị cấp cao Ðối tác xuyên Thái Bình Dương tại Ba-li (6 - 8-10-2013); Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dự và có bài phát biểu quan trọng tại Ðối thoại Shangri-La tại Xin-ga-po (5-2013), Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới Ðông Á tại Mi-an-ma (6-2013), Khóa 68 Ðại hội đồng Liên hợp quốc (9-2013), Hội nghị Cấp cao ASEAN 23, Hội nghị cấp cao Ðông Á (9 - 10-10-2013) và Hội nghị cấp cao ASEAN - Nhật Bản tại Tô-ki-ô.
Ðiểm nhấn của ngoại giao đa phương trong năm 2013 là Việt Nam đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế trong các tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Lần đầu tiên, Việt Nam được bầu vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc với số phiếu cao nhất trong số các nước ứng cử; được đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) niên khóa 2013-2014, tiếp đó là được bầu vào Ủy ban Di sản thế giới của Tổ chức UNESCO nhiệm kỳ 2014 - 2017. Việt Nam sẽ tổ chức hội nghị Liên nghị viện IPU vào năm 2015. Lần thứ hai trong APEC, Việt Nam được tín nhiệm giao đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC 2017, và hiện nay đang tích cực triển khai cho việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, ứng cử lần thứ hai vào Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, ứng cử vào Ủy ban Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Những kết quả nêu trên của ngoại giao đa phương đã cho thấy Việt Nam không chỉ tham gia, mà còn khẳng định vai trò chủ động, tích cực là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
3. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năm 2013, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 22 về hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 22, ngoại giao kinh tế và hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ; góp phần thúc đẩy và làm sâu sắc hợp tác kinh tế giữa ta với các nước đối tác quan trọng; thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp quảng bá, xúc tiến kinh tế đối ngoại, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Với tinh thần "chủ động, tích cực hội nhập quốc tế", ta đã chủ động tham gia, đàm phán Hiệp định Ðối tác xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định TPP), Hiệp định Ðối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP); đàm phán về Hiệp định Thương mại tự do (FTAs) với EU, Hàn Quốc, Liên minh hải quan gồm Nga, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan. Tổ chức thành công Hội nghị các quan chức cấp cao ASEM về phòng, chống cứu trợ thiên tai theo sáng kiến của Việt Nam (tháng 11-2013) và Diễn đàn hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các đối tác Trung Ðông - Bắc Phi (tháng 11-2013). Công tác vận động các nước công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam cũng đạt được kết quả đáng khích lệ, đến nay đã có 43 nước công nhận Việt Nam có quy chế kinh tế thị trường. Trong hợp tác tiểu vùng Mê Công, ta có những đóng góp tích cực nhằm ưu tiên thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững.
Các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch cũng được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ ngành, địa phương, doanh nghiệp tìm đối tác, mở rộng thị trường.
4. Công tác biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thường xuyên được quan tâm và chỉ đạo sát sao. Tình hình biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia cơ bản ổn định. Việt Nam và Lào đã hoàn thành công tác triển khai Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào với việc cắm 792 vị trí mốc, tương ứng với 834 cột mốc trên toàn tuyến biên giới 2.067 km (7-2013). Hai nước cũng đã ký Thỏa thuận cấp Chính phủ giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới (7-2013). Trong năm 2013, Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức Hội nghị tổng kết ba năm thực hiện ba văn kiện về biên giới, và thúc đẩy tiến độ đàm phán tiến tới ký kết Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc.
Trong vấn đề Biển Ðông, chúng ta kiên trì lập trường nguyên tắc, kiên quyết đấu tranh với các hành động vi phạm chủ quyền và các quyền hợp pháp của ta trên biển, tranh thủ được mối quan tâm thường xuyên và sự ủng hộ của dư luận quốc tế và khu vực, bảo đảm các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa 200 hải lý được triển khai bình thường. Ðồng thời, tiếp tục chủ trương giải quyết hòa bình thông qua đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982; cùng các nước nêu cao việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC), cùng ASEAN thúc đẩy việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Ðông (COC).
5. Công tác đấu tranh trong vấn đề dân chủ, nhân quyền và tôn giáo được triển khai đồng bộ bằng các biện pháp vận động, đấu tranh đối ngoại phù hợp, chủ động đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, xây dựng với các nước, qua đó vừa góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, vừa giảm thiểu các tác động tiêu cực và không để vấn đề dân chủ, nhân quyền gây trở ngại cho việc thúc đẩy quan hệ với các nước.
Công tác ngoại giao văn hóa, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, lãnh sự, bảo hộ công dân, thông tin, tuyên truyền đối ngoại được triển khai mạnh và đạt được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên thế giới, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ các quyền lợi chính đáng và hợp pháp của đồng bào ta.
6. Công tác đối ngoại Ðảng được triển khai chủ động, tích cực, hiệu quả theo hướng chú trọng phát triển quan hệ với các đảng cầm quyền, tham chính tại các nước đối tác quan trọng, củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân và cánh tả, tích cực hoạt động ở các diễn đàn đa phương chính đảng, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ Nhà nước.
7. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được triển khai rộng khắp và đạt nhiều kết quả quan trọng, trong đó nổi bật là Ðại hội đồng Liên minh Nghị viện quốc tế (IPU) đã quyết định Việt Nam đăng cai tổ chức IPU - 32 vào năm 2015, và việc Quốc hội ta đã tổ chức thành công Hội nghị Nhóm tư vấn AIPA lần thứ 5. Các hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã góp phần quan trọng làm tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và nhân dân các nước trên thế giới, đồng thời nâng cao vai trò và vị thế của Quốc hội nước ta trong quan hệ với nghị viện các nước trên thế giới.
NHƯ vậy, trong năm 2013, công tác đối ngoại đã thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ quan trọng do Ðại hội XI đề ra, góp phần tạo thế đứng vững vàng hơn cho đất nước. Có được những kết quả tích cực như vậy chính là do chúng ta đã thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia dân tộc. Những thành tích này cũng là kết quả của sức mạnh tổng hợp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân, là kết quả của việc toàn bộ hệ thống chính trị tham gia sâu rộng vào việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện. Chúng ta đã tiến hành nhịp nhàng hoạt động ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao quốc phòng - an ninh; kết hợp hoạt động đối ngoại của Ðảng với ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; phối hợp hài hòa hoạt động ở Trung ương và các địa phương; gắn kết ngoại giao song phương với đa phương.