Cuộc sống nơi đầu sóng
Ai muốn ra khơi cùng các ngư dân cũng phải được sự đồng ý của cán bộ xã. Nếu không, gặp chuyện gì bất trắc xảy ra, rất khó xác định trách nhiệm. Ðó là bài học đầu tiên tôi phải "thuộc" khi đến với những người dân nơi đầu sóng này.
Nửa đêm, khi những người bình thường mới say vào giấc ngủ, thì người dân ở xã Ngư Lộc (Hậu Lộc - Thanh Hóa) đã phải trở dậy để ra khơi. Họ kéo thành từng đoàn, đoàn nhỏ chừng chục người, đoàn đông lên đến vài chục. Có khi họ kết hợp hai, ba gia đình lại với nhau. Không có đất nông nghiệp, họ mưu sinh bằng nghề đánh bắt, sống nhờ biển khơi.
Nhưng cuộc sống của họ đầy bất trắc, bởi đâu phải ai cũng có sức mà ra biển. Chỉ những đàn ông, những người đàn bà khỏe mới đủ sức đi. Còn một số lượng lớn người già và trẻ nhỏ phải sống nhờ những người đi biển kiếm cá, để có tiền chi dùng cho những sinh hoạt hàng ngày. Ðứa trẻ sinh ra đã biết vị mặn mòi của biển, vị tanh nồng của sinh vật biển, nhưng phải đến tuổi 14, 15 mà phải có sức khỏe chúng mới được phép ra khơi. Còn không, chúng dật dờ nơi bãi cá, chờ người lớn về chỉ để nhặt nhạnh những con tép còn mắc trên lưới.
Ông Hoàng Văn Thư, một ngư dân của thôn Thắng Lộc (Ngư Lộc) nói rằng: Ông trời không cho xã Ngư Lộc đất thì cho biển. Nhưng để sống được với biển thì vất vả hơn nhiều. Chỉ còn kém một tuổi nữa là tròn bảy mươi. Ông già đen nhẻm, da mặt xạm sần sùi vì nhiều năm tiếp xúc với nắng và gió biển, chịu sự chà xát của cái mặn mòi biển khơi. Ông cũng không rõ đã bao nhiêu đời người sống và đánh cá trên cái xã biển này, chỉ nhớ rằng khi xưa, ông còn nhỏ đã theo cha ra biển. Giờ nghề đó lại truyền sang đời con, đời cháu. Cứ như vậy, ông nghĩ, chắc có lẽ chẳng bao giờ số phận những người dân này sẽ đổi khác.
Trừ những ngày mưa và giông gió, không thì cứ đến khoảng 1 giờ 30 sớm là bố con ông trở dậy ra khơi. Con trai ông là Hoàng Văn Ðông năm nay mới 24 tuổi, nhưng đã xứng đáng một chủ tàu "cứng cựa" . Ðông có một thân hình chắc khỏe và gân guốc. Dù ít tuổi nhưng đã có thâm niên 10 năm đi biển. Nhìn khuôn mặt già trước tuổi của anh, người ta nghĩ ngay anh là người đã trải nhiều sương gió. Con trai ở đây cứ 14 tuổi trở đi là được gia đình cho ra biển tập. Ðó được gọi là cái tuổi đã "trưởng thành" rồi. Con em được sinh ra bởi bố mẹ làm nghề biển, quanh năm chỉ quen với sóng gió, mặt nước mênh mông và hải sản. Chẳng cần phải học hành chữ nghĩa nhiều làm gì, học đủ để đọc được giấy tờ và cộng trừ tiền, tính được lãi lời từ công việc của mình là... ước mơ cùng biển.
Ðể sống được với biển, người dân ở đây phải thuộc biển như lòng bàn tay. Họ còn có bí quyết đọc được tính nết của biển theo từng mùa. Ðiều này do kinh nghiệm lâu đời đúc rút ra. Ðể có thể biết được hôm nay thời tiết thế nào, ngoài xem ti vi, họ quan sát hướng gió và mầu nước cũng như cường độ của sóng. Nhưng nhiều khi tính khí biển thất thường, không thể đoán biết trọn vẹn được, nên có những người gặp sự cố bất thường, gây tổn thất không nhỏ.
Ðặc biệt, những trường hợp bị lật thuyền, vỡ thuyền... thiệt hại về người và của là rất lớn. Biết là nguy hiểm, khó khăn vất vả, người dân vẫn phải cố gắng làm lụng, rồi cầu giời khấn phật cho trời yên biển lặng, để việc đánh bắt thuận lợi và an toàn. Chúng tôi may mắn có dịp ra khơi cùng những người dân biển nơi đây. Trước khi đi phải chuẩn bị tinh thần từ đêm trước. Khi con mắt còn muốn "nhắm thêm chút nữa" thì đã phải trở dậy rồi.
Trời không may gió mạnh hơn mọi hôm, sóng vỗ ập òa vào thuyền khiến nó lắc lư. Tôi thấy rùng mình. Ông Thư bảo: "Người đi không quen rất khó chịu, dễ bị say sóng rồi gây ốm và mệt mỏi. Như vậy để anh biết cuộc sống người đi biển chúng tôi". Sau bốn giờ chạy, cũng đi cách bờ được chừng 30 hải lý. Nhìn vào phía đất liền đã thấy bình minh đang ló rạng. Họ say sưa, cần mẫn làm việc, thả lưới, kéo, gom cá lại.
Chút ít giờ nghỉ trưa, tôi được ông Thư kể về tai họa mà dân làng phải gánh chịu năm 1996 do trận áp thấp nhiệt đới gần bờ gây ra. Tai họa ấy đã cướp đi sinh mạng của 100 người con của xã đang ở tuổi sung sức. Những ngày tang tóc đau đớn diễn ra dài dài. Giờ thì khá hơn rồi, người đi biển đã có phương tiện để thông tin, có bộ đàm để liên lạc với đất liền. Tàu nào cũng có máy định vị, cho nên rủi ro giảm đi nhiều.
Cứ chiều xuống, khoảng ba, bốn giờ lại quay về đất liền. Nhưng có những đoàn tàu lớn kéo nhau ra biển đánh bắt và ở ngoài khơi mênh mông cả tháng trời mới trở về. Những người vợ trẻ đang đợi chồng, những đứa con ngóng bố. Và phải khi nào thấy người thân của mình trở về an toàn, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
Chủ tàu trẻ Hoàng Văn Ðông nói nhiều về chuyện đi biển thời bão giá, bởi xăng dầu tăng giá thì cuộc sống của người dân đánh bắt lâm vào tình trạng khó khăn khủng khiếp. Có gia đình gần một tháng trời không dám ra biển vì giá chi phí tăng cao. Họ ở nhà, sống bằng số tiền tích lũy từ mùa biển trước, cũng đang nguy cơ cạn. Nếu không kiếm được thêm tiền, ắt hẳn là họ phải sống bằng tiền đi vay.
Nhìn về tương lai
Gần hai nghìn người sống trên một diện tích đất chưa đầy nửa cây số vuông, từ cái rau đến hạt gạo đều phải đi mua ngoài chợ. Ngoài bấu víu vào biển, họ chưa tìm ra một điểm nào khác làm chỗ dựa cho cuộc sống. Trong khi nguồn tài nguyên biển ngày càng cạn kiệt, việc đánh bắt không phải lúc nào cũng theo ý muốn thì dân số cứ ngày một tăng.
Phó Chủ tịch UBND xã Ngư Lộc Nguyễn Văn Ngữ cho rằng, việc giải quyết công ăn việc làm ở xã là rất nan giải. Một nửa số lao động đang thiếu việc làm trầm trọng. Khi thiếu công ăn việc làm, họ đổ ra Hà Nội, theo nhau vào Sài Gòn, kém nhất thì cũng tìm lên thành phố Thanh Hóa... để kiếm kế sinh nhai. Bởi ở nơi đất chật người đông, biển cả rộng đến mấy cũng không dung nạp hết số phận của ngần ấy con người. Ðã khó lại càng khó. Khi cuộc sống quá vất vả thì chẳng ai quan tâm nhiều đến chuyện học hành của con cái. Phần lớn trẻ em ở đây chỉ được theo học hết cấp PTCS rồi nghỉ ở nhà ra biển, chạy chợ hoặc đi làm thuê. Lớn lên tí chút thì xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái, luẩn quẩn vào vòng mưu sinh nghiệt ngã như cha ông chúng.
Ông Phan Văn Oanh, một ngư dân kỳ cựu có bảy người con thì cả bảy đều xây dựng gia đình và theo cha làm nghề chài lưới, sống với biển. Từ độ "bão giá" bùng nổ, tất cả các con ông đều chán nản với nghề, đang tìm cách xoay xỏa cho qua ngày đoạn tháng. Việc bỏ làng ra đi, hay cứ đâm ra biển đều không hề hữu hiệu. Ông Oanh thì già rồi, muốn một ngày sống bình yên cũng không được. Làm sao ông có thể sống bình yên được khi con ông đang sống khổ, các cháu nheo nhóc bẩn thỉu.
Ông tâm sự: "Trời sinh voi không sinh cỏ ư? Chẳng lẽ dân chúng tôi cứ chịu mãi cảnh thụ động sống nhờ biển, rồi có lúc chết hết cả. Con cá cái tôm ngày càng khó kiếm. Ðồng tiền cũng ngày càng mất giá mà không dễ kiếm chút nào".
Cái triết lý của một người già chỉ biết lờ mờ mấy chữ xem ra cũng sâu sắc. Tôi càng hiểu nỗi lo về cái ăn cái ở của người dân, của những người già như ông. Người dân nơi khác có ruộng vườn, người ta còn bấu víu vào ruộng vườn để có cái rau, bát cháo qua ngày. Ðằng này người đông, cái nhà xát xạt nhau, đến cái nhà cũng khó thở chứ không nói gì đến con người. Tuy rằng, gió biển, khí biển thì hào phóng đó. Quá hào phóng cũng biến thành ngộp thở, chứ được tích sự gì.
Ngồi trên bãi biển, nơi những con thuyền chơ vơ trong gió và nắng vì không có xăng dầu để ra khơi, ông Hoàng Văn Thư mệt mỏi nói: "Những người như tôi rồi sẽ có lúc chẳng thể ra khơi được nữa, có nguồn thu nhập gì để sống đây. Dựa vào con cái à? Con cái nó còn làm nuôi con. Ðành rằng chúng nó không thể bỏ mình, thì mình cũng phải hiểu, do vậy cuộc sống sẽ vất vả lắm".
Sống trên mảnh đất hẹp, có mấy khi người dân nơi đây được thấy dáng dấp của cỏ và cây xanh, có chăng là mầu xanh của mấy cây dừa hay ngọn phi lao xạc xào trong gió. Tôi biết, nếu một mai không có sự thay đổi nào khác cho những thân phận biển, thì chẳng biết vài chục năm nữa, những đứa trẻ sinh ra ngày càng nhiều, sẽ sống ở đâu.
Ðó không chỉ là suy nghĩ của ông Thư, ông Oanh, các lão làng khác mà thế hệ tuổi trẻ của xã cũng đang tính đến chuyện này. Ðã không có đất nông nghiệp, thì ngoài biển ra, họ phải tìm cho mình một lối thoát để ổn định cuộc sống. Không thì người Ngư Lộc chỉ mãi mãi sống với hai nghề là làm thuê và đi biển mà thôi!