Những nhà khoa học của ruộng đồng

Kiểm tra sự sinh trưởng
của cây cà chua C95.
Kiểm tra sự sinh trưởng của cây cà chua C95.

Gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất

Tọa lạc trên một diện tích khá rộng (150 ha) thuộc huyện Gia Lộc (Hải Dương), nhìn từ bên ngoài, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm (CLT và CTP) với một cơ ngơi khá khang trang. Trên cơ ngơi này, từng xuất hiện nhiều nhà khoa học nông nghiệp hàng đầu của nước ta như Lương Ðịnh Của, Hồ Ðắc Song, Vũ Tuyên Hoàng.

Sau 35 năm xây dựng và trưởng thành, từ cơ ngơi  là vài căn nhà lá đơn sơ với hơn 20 cán bộ, đến nay, viện có đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo với 280 người, trong đó 105 kỹ sư, 15 tiến sĩ, 15 thạc sĩ hoạt động ở tám bộ môn nghiên cứu, ba trung tâm.

Ðến nay, viện hoàn thành tốt nhiều đề tài, chương trình dự án cấp nhà nước, lai tạo, chọn lọc 58 giống cây trồng các loại và bảy quy trình kỹ thuật được công nhận giống quốc gia.

Trưởng thành cùng các giai đoạn phát triển của sản xuất nông nghiệp nước ta, những đề tài nghiên cứu của viện đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển của sản xuất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người nông dân. Nhân lễ kỷ niệm 35 năm Ngày thành lập viện, những cán bộ lãnh đạo điểm lại bước trưởng thành của viện theo ba giai đoạn chính.

Giai đoạn 1968-1977, dưới sự lãnh đạo của cố Bác sĩ nông học Lương Ðịnh Của, kỹ sư nông học Hồ Ðắc Song, viện đưa ra đồng ruộng nhiều giống lúa như chiêm 314 cho vùng trũng, giống thấp cây NN 8-388, NN 5, NN 22, NN 23, mở đầu cho quá trình thâm canh lúa ở nước ta; các giống dưa nhập như bạch lê, dưa hấu số 1, số 2 trong vụ đông. Cũng từ giai đoạn này, viện nghiên cứu thành công và phổ biến các biện pháp thâm canh như đắp bờ vùng bờ thửa, cấy chăng dây thẳng hàng, cấy ngửa tay, làm cỏ bằng cào cải tiến.

Bước sang giai đoạn 1978-1985, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư, Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, viện tiếp tục có các đề tài nghiên cứu mang tính đột phá trên đồng ruộng lúc đó như chọn tạo từng giống lúa phù hợp địa hình sinh thái (mặn, hạn, úng); sản xuất khoai tây bằng hạt, tăng lượng dinh dưỡng trong giống với các giống từng có thời kỳ mở rộng diện tích khá lớn như mộc tuyền lùn, NN 75-1, NN 75-6, lúa xuân số 2, cà chua số 7, khoai tây VÐ1, VÐ2.

Từ năm 1985 đến nay được viện đặt là thời kỳ đổi mới. Viện từng bước tổ chức lại các bộ môn nghiên cứu theo hướng chuyên sâu, lai tạo, chọn lọc nhiều giống lúa góp phần tăng năng suất cho các vùng thâm canh như N13, xuân số 5, MT 163, MT 6, thích ứng vùng khô hạn tưới nhờ nước trời như  CH 2 (chịu hạn 2), CH 3, CH 133, CH 5, các giống chịu úng như U 14, U 17...

Bên cạnh đó, viện chú trọng chọn tạo những giống lúa có hàm lượng dinh dưỡng protein cao như P4, P6, được công nhận là giống quốc gia với hàm lượng protein trong gạo đạt 10-11%, cao hơn các giống lúa khác 3-4%. Các giống rau, màu cũng có sự chuyển biến đáng kể đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa nông sản, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng luân canh như các giống khoai lang ngắn ngày số 8, số 59, số 143, khoai lang làm thức ăn gia súc có năng suất cao KL 5, khoai lang hàm lượng dinh dưỡng cao KB 1; các giống đậu tương ÐT 92, TL 57, ÐT 96-02, các giống cà chua Hồng Lan, lai số 1, đặc biệt giống C 95 có năng suất 45-50 tấn/ha để hình thành vùng nguyên liệu chế biến.

Ngoài ra, thời gian gần đây, các giống cải số 8, số 9, cải bắp 1, Kinh 60, dưa hấu lai số 1, dưa chuột H1, Sao xanh đã được nhiều tỉnh đưa vào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cho thu nhập hơn 50 triệu đồng/ha/năm.

Cũng trong giai đoạn này, viện hoàn thành bảy quy trình kỹ thuật cấp nhà nước về nhân giống  như nhân giống nhãn bằng ghép mắt, sản xuất khoai tây bằng hạt, nhân giống khoai tây sạch bệnh, gieo thẳng ở đồng bằng sông Hồng...

Tiến sĩ Ðào Xuân Thảng, Trưởng bộ môn cây trồng cạn cho biết: Từ năm 1995,  các cán bộ khoa học của viện đã tham gia một số mô hình có mối liên kết các "nhà". Một số doanh nghiệp của Nhật Bản, Ðài Loan và trong nước khi đầu tư cung cấp giống mới cho nông dân đã phối hợp cán bộ của viện tập huấn kỹ thuật và giám sát canh tác. Hình thức chủ yếu là các doanh nghiệp trả công cho nhà khoa học theo tháng lao động.

Sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 80 về việc đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng và đẩy mạnh chủ trương liên kết giữa các "nhà", vai trò là nhà khoa học của viện rõ rệt hơn khi viện chủ động tìm đến doanh nghiệp và tư vấn, tìm cho các doanh nghiệp những xã, HTX đủ điều kiện hình thành vùng nguyên liệu.

Ðó là mô hình đưa giống cà chua C 95 của viện trồng ở Hải Hậu (Nam Ðịnh) cung cấp cho Nhà máy cà chua Hải Phòng với khoảng 200 ha; mô hình liên kết Công ty TNHH Ðức Lộc, Công ty phát triển nông nghiệp Việt Hưng (Hải Dương) trồng dưa chuột xuất khẩu ở Ðồng Hóa (Kim Bảng, Hà Nam); mô hình sản xuất lúa P 6 ở Nghệ An...

Thông qua quá trình liên kết này, viện đã phổ biến sản phẩm, thành quả nghiên cứu của mình ra đồng ruộng, thêm thu nhập, đồng thời khẳng định vai trò không thể thiếu của các nhà khoa học trong mối liên kết giữa các nhà.

Nỗ lực hơn trong thời kỳ mới

Cuối năm 2002, từ quy mô hoạt động bao trùm cả nước, Viện CLT và CTP được quy hoạch lại phục vụ riêng đồng bằng sông Hồng.

Thạc sĩ Ngô Doãn Ðảm, Phó Viện trưởng cho biết: Với nhiệm vụ mới, lại được Nhà nước tạo điều kiện về kinh phí, chúng tôi có điều kiện tập trung chuyên sâu hơn. Viện đã sắp xếp lại các bộ môn theo hướng này, đồng thời hình thành một số đơn vị mới đáp ứng yêu cầu của xu thế như: trung tâm khảo nghiệm, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; nghiên cứu hệ thống nông nghiệp. Nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học được chia làm hai phần, trong đó 30% dành cho công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.

Trong giai đoạn đổi mới, nước ta bước sang cơ chế thị trường. Với việc ngành nông nghiệp xóa bỏ hệ thống sản xuất giống bốn cấp, công tác nghiên cứu khoa học của viện có nhiều khó khăn. Nguồn giống nhập nội ồ ạt, ngành sản xuất, kinh doanh giống có quá nhiều đầu mối với hàng trăm doanh nghiệp kinh doanh giống. Các đơn vị tư nhân mặc sức tung hoành, làm thị trường giống phức tạp và nhiều nơi người nông dân điêu đứng do mua phải giống giả, kém phẩm chất. Ðã có lúc, những người làm công tác nghiên cứu khoa học ở viện bất lực khi có những thành quả nghiên cứu không được ứng dụng rộng rãi.

Tiến sĩ Trương Văn Kính, Trưởng bộ môn chọn tạo giống lúa cho biết: Kể từ khi nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo, nhu cầu dinh dưỡng của hạt gạo ở thị trường trong nước tăng, chúng tôi nghiên cứu các giống P (giàu protein), được Nhà nước công nhận giống quốc gia và các tổ chức chuyên ngành trên thế giới phân tích, công nhận hàm lượng protein. Hiện nay chúng tôi vừa chọn tạo được giống P1. Mặc dù chúng tôi đã giới thiệu với ngành nông nghiệp các tỉnh nhưng các tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền núi  phía bắc lại không mặn mà lắm, nhất là bên ngành khuyến nông.

Không chỉ riêng về giống lúa, các bộ môn khác cũng cùng cảnh ngộ: Nhiều giống cây trồng của viện đã được giới thiệu, thử nghiệm đạt kết quả cao nhưng chỉ sau một vài vụ thu hoạch, bà con lập tức đưa ra khỏi cơ cấu, đưa cây mới vào trồng. Ðiều này được thể hiện rõ nét tại xã Gia Xuyên (Gia Lộc, Hải Dương), một trong những xã có tiếng bởi  trình độ thâm canh và thu nhập bình quân /ha canh tác. Với hệ số quay vòng đất gần bốn lần trong năm, bình quân mỗi ha trên tổng số 309 ha canh tác của xã đạt bình quân gần 70 triệu đồng, trong đó diện tích chuyên màu đạt hơn 100 triệu đồng/năm.

Một thực tế là để đạt mức thu nhập này, bà con đưa vào nhiều giống cây mới như dưa hấu Hắc Mỹ Nhân thay thế giống dưa hấu của viện do giống Hắc Mỹ Nhân trồng được trái vụ, cho năng suất cao và hàm lượng đường  hơn hẳn giống dưa hấu viện, hơn thế lại có quả nhỏ vừa phải, phù hợp thị hiếu tiêu dùng.

Ðây là thực tế đáng mừng đối với người dân Gia Xuyên nhưng lại đặt ra nhiều vấn đề với đội ngũ cán bộ khoa học của Viện CLT và CTP, trong đó, vấn đề lớn nhất là làm sao chọn tạo được những giống cây mới có chất lượng, năng suất đáp ứng yêu cầu thị trường và nhu cầu tiêu thụ của người dân.

Ngày 12-3 tới, đội ngũ cán bộ khoa học của Viện CLT và CTP tổ chức lễ đón nhận Huân chương Ðộc lập hạng nhì. Ðây là phần thưởng của Nhà nước trao tặng cho viện sau 35 năm xây dựng và trưởng thành, nỗ lực đóng góp nhiều thành tích vào sự phát triển của nền sản xuất nông nghiệp nước ta. Nhiều nhà khoa học của viện có chung nhận định: Ðây là vinh dự lớn, nhưng đồng thời cũng là động cơ để đội ngũ cán bộ khoa học Viện CLT và CTP thêm nỗ lực phấn đấu, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đang sôi nổi phong trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng.

Có thể bạn quan tâm