Vào mấy năm đầu của thế kỷ 21, cuộc sống đã có nhiều chuyển dịch theo hướng phát triển và một biến thiên văn hóa - xã hội mới đang diễn ra, đẩy tới tình huống bên nhiều "cái cũ" đang dần dà phai nhạt thì nhiều "cái mới" vừa ló dạng hôm nào, nay như đã thành điều hiển nhiên.
Riêng về mặt nghề nghiệp cũng đã thấy có nhiều sự lạ. Từ làng quê xa xôi đến chốn thị thành, hiếm ở nơi đâu lại không bắt gặp các loại biển hiệu sặc sỡ, kẻ vẽ công phu từ internet tốc độ cao, Xay xát gạo, Ðánh máy vi tính, In laze, photocopy, Sửa chữa và bảo trì điện thoại, Sửa ti-vi... đến Ép plastic, Sửa chữa xe máy, Bán và cho thuê đĩa CD, Giặt khô là hơi... Chúng mặc nhiên thay thế cho các kiểu loại biển hiệu với đôi ba dòng chữ xanh xanh đỏ đỏ, kẻ vẽ nhôm nhoam, tạm bợ ngày nào còn nhan nhản đó đây, từ Quay tông - đơ dao kéo, Gia công mỳ sợi, Bơm mực bút bi... đến Lộn cổ áo sơ-mi, Pic-kê quần dài, Gia công quy gai, quy xốp, Dán áo mưa... (trong đó tôi luôn có ấn tượng không được hào hứng lắm với loại biển hiệu có nội dung: Xay bột trẻ em!).
Và rong ruổi từ các đường cái quan đến đường ngang ngõ hẻm, ngày nay hầu như không còn gặp những bác "phó cạo" tay xách hòm, tay bê chiếc "gương", bác "phó cối" với đôi quang thúng lỉnh kỉnh đồ nghề, các ông "thợ hàn xoong nồi" hay "hàn dép nhựa" gánh theo chiếc bếp dầu leo lét ánh lửa và khét lẹt, nghi ngút khói, thay thế vào đó là những "nhân viên tiếp thị", nhân viên "bán bảo hiểm"... nếu không khoác bộ đồng phục đẹp mắt thì cũng da phấn mặt hoa, áo váy xênh xang. Rồi nữa là những thùng kem Wall's đặt trên xe đạp, những anh hàng xén bán từ cái cắt móng tay, cái ví da đến bơm ga bật lửa..., và người bán, kẻ mua cùng trao đổi trong tiếng nhạc xập xình rộn ràng phát ra từ những chiếc loa thùng. Nghĩa là đã có nhiều nghề nghiệp mới ra đời và nhiều nghề nghiệp mới đã và đang mất đi.
Cối xay lúa.
Xưa kia, không biết phải mất bao nhiêu năm, tổ tiên chúng ta mới rút đúc được kinh nghiệm để làm ra những chiếc cối xay nhỉ, có lẽ phải lâu lắm các cụ mới phát hiện ra rằng "đất tổ mối" là loại đất thích hợp "cối đất" - tuy nặng nề, làm rất kỳ công nhưng chỉ xay một lần là xong, chứ không như "cối tre" phải xay tới hai lần thì gạo mới ra gạo, trấu mới ra trấu.
Cối làm bằng "đất tổ mối" vừa không nứt, vừa ít bụi, các cụ bảo "nước bọt" của các con mối đã luyện cho đất cái tính chất ưu việt ấy. Ðất lấy từ tổ mối về, nhào kỹ sao cho không khô cũng không nhão, rồi lèn chặt trong "thớt trên", "thớt dưới", được bao quanh bằng hai chiếc đai đan bằng tre cật. Lại tới hàng "dăm" gỗ được ken dày theo hình răng khế, đóng chặt vào đất, và câu tục ngữ "chật như nêm cối" cũng từ đấy mà ra. "Dăm" cối phải làm bằng gỗ dẻ hoặc cùng lắm là gỗ sồi, thẳng thớ và khi cối quay, đầu "dăm" chỉ mòn đi chứ không bị toét.
Những chiếc cối đất có tuổi đời cao, hàng "dăm" gỗ mòn đến sáng bóng. Ở vùng đồng bằng, ít gỗ, khó kiếm đất tổ mối, nhiều nơi làm cối tre, "dăm" cối làm bằng "tre đực" ngâm kỹ, số "dăm" dày hơn. Nhưng dù cối loại nào thì quan trọng nhất vẫn là cách thức bác phó "chỉnh cối" để khi xay, hạt thóc chỉ bị bóc đi lớp vỏ trấu bên ngoài, hạt gạo còn nguyên vẹn, không bị "đớn", nói cách khác là không bị vỡ thành những mảnh tấm. Nếu thời gian làm được chiếc cối là quãng một tuần thì riêng công đoạn "chỉnh cối" cũng phải mất một hai ngày. Ấy là chưa nói tới gỗ để làm "trục cối" phải làm bằng gỗ nhãn, nặng và lâu mòn... Mỗi chiếc cối xay quả là một kỳ công và vì thế mà một thời, bác "phó cối" trở thành nhân vật quan trọng!
Bác "phó cối" toòng teng quang gánh khắp xóm cùng quê, thường thì mỗi chuyến đi của bác đều theo hẹn trước của một, hai gia đình, vì gia chủ còn phải chuẩn bị một số vật liệu để bác hành nghề. Tiền nong giá cả xong xuôi, bác "phó" bắt tay vào việc. Những ngày ở lại làm việc, bác "phó" luôn được gia chủ tiếp đãi như thượng khách. Ngày hai bữa cơm rượu, nhà dù nghèo thì cũng cố kiếm cho được vài thứ ngon lành để bác gắp lên hạ xuống.
Không rõ thịnh tình ấy là do tôn trọng nghề nghiệp hay là do cần phải đề phòng, vì từng có gia đình lúc nghiệm thu thì cối xay đâu ra đấy, nhưng khi bác "phó" về được vài ngày thì cối lại trở chứng, nếu không xay lúa ra tấm thì cối cũng nằm ì, giật bở hơi tai cối mới ì ạch quay...
Với các sự cố kiểu ấy thì chỉ có bác "phó" mới xử lý được, lại phải mời bác đến, lại cơm rượu, lại phấp phỏng. Vậy là cứ tiếp đãi bác tử tế cho xong, kẻo lại rơi vào cảnh "một tiền gà ba tiền thóc"! Và khi chiếc cối hoàn thành, cùng với cối giã gạo, chúng trở thành bộ đôi công cụ để làm hạt thóc trở thành hạt gạo. Và tới khi hạt gạo vào nồi, thì một quy trình sản xuất của cư dân nông nghiệp lúa nước đã hoàn tất.
Hạt gạo vào nồi, với nồi đất thì không nói làm gì, chứ với nồi đồng thì còn gắn liền với bác "thợ hàn xoong nồi". Quang thúng của bác lủng củng ấm sứt vòi, chậu đồng rách..., dăm mảnh đồng, mảnh nhôm và chiếc "đèn khò", cộng thêm mấy chiếc lọ thủy tinh đựng thứ chất lỏng mà bác gọi là "cát xít". Hằng ngày, trên đường rong ruổi, nếu không vào từng nhà thì bác dừng chân ở nơi đầu xóm, tìm chỗ mát mẻ, chờ các bà, các chị trong xóm tự mang xoong, nồi, xanh, thau... ra cho bác "giải quyết". Trong tiếng láo nháo của đám trẻ con vây quanh, bác "phó" cắm cúi làm việc. Bác hàn đồng bằng nhiệt từ chiếc "đèn khò" cho miếng vá kín miệng và không lọt nước đã là đáng nể, song với cái công việc chỉ bằng cây búa nhỏ, cây kéo và miếng đồng mà bác tỉ mẩn tán vào vết thủng mới thật sự là kỳ công, miếng vá như gắn liền vào vật dụng. Các bà, các chị mang về đun thử, rồi cười hớn hở ra... thanh toán.
Cuộc sống là vậy, nó vừa sinh sôi, nảy nở cái mới, vừa nhẹ nhàng đưa cái cũ không còn hợp thời vào với quá khứ. Có lẽ vì thế mà ngày trước, Vũ Ðình Liên đã có lần phải thốt lên đôi câu thơ đầy cảm thán: "Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ?"... Và như những bác "phó cối", "phó hàn" kia, ở nước Nam này vẫn lúa, vẫn gạo như hàng nghìn năm trước, xoong nồi vẫn cứ hỏng hóc thường xuyên mà liệu có mấy người còn nhớ tới họ?
Sau vài năm, những chiếc "máy xay xát" vận hành bằng động cơ điện chạy ì ầm nơi đầu làng giữa xóm đã trực tiếp đẩy những chiếc cối xay, đưa những chiếc cối giã gạo vào viện bảo tàng, làm cho bác "phó cối" thất nghiệp, còn cánh trẻ cũng chẳng có ai nghĩ đến hai chữ "nối nghề". Chẳng mấy chốc, các xóm nhỏ vắng dần tiếng "ù ù" của cối xay lúa, tiếng thậm thình của cối giã gạo, và trai gái trong làng mất đi một điều kiện cho những lần "hộ nhau" mà biết đâu chẳng có ngày nên đôi nên lứa.
Tháng năm qua đi, vật đổi sao dời, như các ông đồ ngày xưa, hình ảnh "bác phó" hôm nay có lẽ chỉ còn trong hoài niệm, và có một lúc rảnh rang nhớ về các bác, đành cũng phải mượn câu thơ của Vũ Ðình Liên mà thốt lên: "Ðâu rồi những "nghề" muôn năm cũ?"!