Những thành quả đáng ghi nhận
Tính đến tháng 6-2013, Việt Nam có 15.067 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106,3 tỷ USD, chiếm khoảng 48,6%. Riêng năm 2013, FDI có sự đảo chiều tăng trở lại ngoạn mục so với giai đoạn đi xuống liên tục kể từ 2009-2012, với kết quả khả quan cả về vốn đăng ký mới, vốn bổ sung và vốn thực hiện, cũng như cơ cấu ngành và chủ đầu tư.
Theo đó, trong năm 2013 (tính đến ngày 15-12-2013), cả nước thu hút FDI đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 14,3 tỷ USD vốn đăng ký của 1.275 dự án được cấp phép mới, tăng 70,5% (số dự án tăng 0,7%) và 7,3 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 472 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước, tăng 30,8%. Vốn FDI thực hiện ước đạt 11,5 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm 2012.
50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư FDI cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 3.381,1 triệu USD, chiếm 23,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Bình Thuận 2.029,6 triệu USD, chiếm 14,2%; Hải Phòng 1.843,6 triệu USD, chiếm 12,9%; Bình Định 1.019,7 triệu USD, chiếm 7,1%; TP Hồ Chí Minh 949 triệu USD, chiếm 6,6%; Đồng Nai 745,1 triệu USD, chiếm 5,2%; Bình Dương 714 triệu USD, chiếm 5%; Hải Dương 620,6 triệu USD, chiếm 4,3%...
Trong số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam năm 2013, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3.752,1 triệu USD, chiếm 26,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Singapore 3.014,1 triệu USD, chiếm 21,1%; Trung Quốc 2.276,6 triệu USD, chiếm 16%; Nhật Bản 1.295 triệu USD, chiếm 9,1%; Liên bang Nga 1.021,7 triệu USD, chiếm 7,2%; Hồng Kông (Trung Quốc) 604 triệu USD, chiếm 4,2%; Đài Loan 400 triệu USD, chiếm 2,8%.
Xuất khẩu của khu vực FDI trong những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu: Năm 2011 chiếm 56,9% và tăng 41%; năm 2012 chiếm 63,1% và tăng 31,1%; năm 2013 chiếm 61,4% và tăng 22,4%. Đặc biệt, khu vực FDI xuất siêu liên tục sáu năm qua, với mức 6,6 tỷ USD năm 2008; 4,3 tỷ USD năm 2009; 2,1 tỷ USD năm 2010; 6,2 tỷ USD năm 2011; 12,3 tỷ USD năm 2012 và năm 2013 tăng vọt lên 14 tỷ USD, trong khi trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 13,1 tỷ USD.
Hoạt động nhập khẩu cũng có xu hướng tăng mạnh và kim ngạch chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu: Năm 2011 nhập khẩu của khu vực FDI chiếm 45,7% và tăng 32,1%; năm 2012 chiếm 52,7% và tăng 22,7%; năm 2013 chiếm 56,7% và tăng 24,2%. FDI đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng thu ngân sách nhà nước, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2 tỷ USD (2001-2010).
Hiện tại, 58,4% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi-măng…
Hoạt động FDI đã lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm (hiện có trên hai triệu lao động trực tiếp, từ ba đến bốn triệu lao động gián tiếp liên quan đến các doanh nghiệp (DN) FDI)... khơi dậy nguồn lực đầu tư trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách DN nhà nước, đổi mới thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần tăng cường mối quan hệ chính trị, đối ngoại, phát triển quan hệ hữu nghị với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, đối tác trên thế giới.
Ngoài ra, hoạt động thu hút FDI đã góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định Đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều quốc gia; đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Tuy nhiên, hoạt động FDI ở Việt Nam thời gian qua còn nhiều hạn chế về thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư phát triển hạ tầng, chuyển giao công nghệ và giá trị gia tăng. 80% DN FDI sử dụng công nghệ trung bình, 5% sử dụng công nghệ cao và còn lại sử dụng công nghệ lạc hậu, thậm chí gây ô nhiễm môi trường. Số dự án FDI vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế và vào lĩnh vực nông ngư nghiệp rất thấp, thậm chí có xu hướng giảm dần. Ngoài ra, thu nhập bình quân theo tháng của người lao động trong DN FDI chỉ cao hơn khu vực DN tư nhân trong nước, nhưng thấp hơn khu vực DN nhà nước.
Triển vọng về một chu kỳ mới
Có nhiều cơ hội và cơ sở để tin rằng từ năm 2014 sẽ bắt đầu chu kỳ mới tăng trưởng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được Nhà nước khuyến khích phát triển lâu dài, được bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và đối xử bình đẳng trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, thực hiện theo đúng cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần Nghị quyết 103 của Chính phủ ban hành tháng 9-2013, trong giai đoạn tới, cần tạo bước chuyển mạnh về thu hút FDI cả về lượng và chất để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi ích Quốc gia.
Theo đó, ưu tiên các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao, phát triển hệ thống các ngành, các DN phụ trợ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, có chất lượng, công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ hiện đại; lựa chọn các nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư phát triển thị trường tài chính.
Mặt khác, cần chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa phương và phù hợp với định hướng tái cấu trúc, lợi thế của từng vùng. Việc thu hút FDI phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch và chỉ đạo tập trung, thống nhất của trung ương, đi đôi với phân cấp hợp lý cho các địa phương trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội và năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong chức năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật đầu tư nước ngoài phải bảo đảm nguyên tắc nhất quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng thuận lợi hơn và ưu đãi hơn; khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường sự liên kết giữa các DN vì lợi ích tổng thể nền kinh tế và quốc gia; tiếp tục tạo dựng khung pháp lý thuận lợi, minh bạch cho việc thành lập, hoạt động và chấm dứt các DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chính sách ưu đãi đầu tư bảo đảm tính hệ thống, gắn ưu đãi theo ngành, lĩnh vực ưu tiên với theo vùng lãnh thổ để thúc đẩy sự phân công lao động giữa các địa phương; thực hiện ưu đãi đầu tư có chọn lọc phù hợp với định hướng thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước và cam kết chuyển giao công nghệ tiên tiến, đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng và trong khu công nghiệp; giảm bớt bớt các hạn chế không cần thiết và cho phép tham gia nhiều hơn vào các thị trường vốn, thị trường tài chính trên nguyên tắc hiệu quả, nhưng chặt chẽ, kiểm soát môi trường.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp và phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về FDI nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, chịu trách nhiệm của địa phương, đồng thời bảo đảm quản lý thống nhất của trung ương. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt động xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin và hỗ trợ đầu tư gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; đề cao sự điều phối chung thống nhất của Trung ương trong cả nước về nội dung, thời gian, địa điểm theo kế hoạch và theo định hướng chung.
Tăng cường kiểm tra, giám sát các dự án FDI trên địa bàn để kịp thời phát hiện khó khăn, vướng mắc, tìm giải pháp hỗ trợ và tháo gỡ, đôn đốc các dự án chậm tiến độ, chậm triển khai hoặc chưa tuân thủ các cam kết; đồng thời, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật. Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài để giúp cho công tác giám sát được liên tục, chặt chẽ; thường xuyên cập nhật và phân loại tình hình thu hút, hoạt động đầu tư nước ngoài để phục vụ cho công tác quản lý, điều hành và hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước các cấp. Đẩy mạnh rà soát, chấn chỉnh công tác giải quyết tranh chấp liên quan đến FDI.