Keng... keng... keng... Tiếng kẻng đột ngột gióng lên giữa ngọn đồi như xua bớt đi sương giá. Ðã thấy, trong những nếp nhà thấp lè tè của bản người Mông thuộc xã Mồ Dề, lấp lánh ánh lửa. Mùi khói, mùi củi bùi bụi, ngai ngái. Rồi những em bé Mông co ro, vừa đi vừa dụi mắt, í ới gọi nhau: "Tập thể dục đi", cô giáo Mỷ gọi rồi đấy!...".
Một ngày mới của cô giáo Mỷ bắt đầu như vậy đấy.
Sinh ra và lớn lên ở xã Khao Mang, cách xã Mồ Dề, nơi có Trường phổ thông cơ sở Mỷ dạy học hiện nay hơn chục cây số, tuổi thơ của Mỷ là những ngày gian khó lên rừng kiếm củi, gùi ngô, đi lại giữa những con đường mòn im lìm cây lá. Vì vậy, mà được đi học rồi trở thành cô giáo, đứng trên bục giảng với Mỷ, là hạnh phúc đến ngỡ ngàng, bởi đời sống bản làng người Mông của cô nhọc nhằn lắm. Mỷ kể, có lần, cô hỏi học trò:
- Cả lớp mình, nhà ai có cơm nếp? Không em nào giơ tay.
- Thế nhà ai có cơm tẻ? Cũng không có em nào giơ tay.
- Ðến bữa, lớp mình ăn gì?
- Cơm trộn củ mì (sắn) ạ.
Duy nhất, em học sinh con ông trưởng bản, gia đình vào loại khá giả, rụt rè:
- Nhà em ăn cơm trộn ngô.
Ðến giờ, Mỷ bảo, nhiều nhà bữa ăn thường xuyên vẫn chỉ là cơm, canh rau và muối ớt. Các em bé, buổi sáng đến trường, thường mang theo một nắm cơm, thế là may lắm. Chứ có bé còn nhịn đói. Nhưng đối mặt đầu tiên của Mỷ chưa phải là dạy chữ, mà là cái lạnh, cái rét của trẻ trên vùng cao.
Vì thế khi tôi hỏi Mỷ: "Ðời dạy học, cô giáo nhớ nhất điều gì?". Mỷ bảo: "Nhớ nhất là những em bé đến trường phong phanh chỉ một chiếc áo mỏng, có em chân đi đất, thương lắm chị ạ!". Như cô bé Mùa Thị Già, ở ngay bản Mồ Dề này thôi. Nhà Già quá nghèo, cha mẹ lại bỏ nhau. Già phải đến ở với bà ngoại. Nhà bà ngoại có hơn gì. Nhiều hôm cô bé đến trường mặt, môi tím tái vì rét, Mỷ phải lấy quần áo của con mình cho Già mặc. Những ngày đông giá Mỷ đốt một đống lửa giữa lớp cho cả cô và trò có chút ấm áp ngồi học.
Ðến việc dạy trẻ vùng cao cũng chả giống ai. Các em đều là người Mông, còn chương trình, sách giáo khoa bắt buộc phải dùng tiếng Việt. Thế là Mỷ phải dùng cả hai thứ tiếng bổ sung cho nhau để trẻ có thể hiểu nghĩa. Cô và trò cứ như đánh vật với chữ, với nghĩa, với những phép tính đơn giản.
Trẻ em dân tộc thiểu số nhút nhát lắm. Thằng bé Mùa A Sú dạy mãi cũng không viết được, vì không chịu bắt chước cô giáo. Mỷ hỏi, thằng bé òa khóc: "Em không biết viết cái này. Em không bắt chước được. Em chỉ biết bẫy chuột thôi!". Cô giáo Mỷ dỗ dành: "Thì mình hãy làm như bẫy chuột, phải theo đường đi của con chuột nhé. Những dòng kẻ là đường đi của con chuột. Mình sẽ viết cái chữ theo dòng kẻ này...". Dần dà những con chữ đã đi theo dòng kẻ của Sú. Còn Sú đi theo "dòng kẻ" của cô giáo Mỷ. Nay, cả Mùa Thị Già, cả Mùa A Sú đều học lên lớp 5 rồi đấy.
Ðã bao mùa rẫy đi qua, bao lần bông hoa rừng bên con suối Nậm Mơ nở, Mỷ chẳng nhớ nổi. Nhưng Mỷ nhớ rất rõ ngóc ngách các nóc nhà của người Mông ở các thôn, bản, phải qua con suối nào, qua ngọn núi nào. Bước chân của Mỷ quá quen với con đường mòn, con đường rừng, con đường tắt đi đến mỗi nóc nhà, vận động các bố, các mế, các em bé đến lớp.
Có dạy học ở vùng cao, xã Mồ Dề, huyện Mù Cang Chải này, tên huyện chỉ nghe đã thấy cao, thấy xa mịt mờ, Mỷ thấm thía một điều chưa bao giờ cô nghĩ đến, cũng chưa nhà trường sư phạm nào dạy. Ðó là trước khi làm cô giáo dạy chữ, phải làm một cán bộ biết vận động dân bản. Trước khi đứng trên bục giảng, đôi chân phải biết đi bộ, phải biết đạp lên trên những ngọn núi, biết lội qua những con sông, con suối. Cái danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện, danh hiệu giỏi việc trường, đảm việc nhà mà Mỷ được bầu tặng thấm đẫm không chỉ mồ hôi lao động, mà là cả nghị lực vượt khó và tình yêu với con người, yêu thương những đứa trẻ.
Cách nơi Sùng Thị Mỷ đang dạy học hàng nghìn cây số, về phía nam trên đỉnh Chư Krei có một cô giáo cũng đang phải làm những công việc như Mỷ. Ðó là Bùi Thị Quảng, cô giáo người Kinh duy nhất can đảm bám trụ giữa nơi thâm sơn cùng cốc của huyện Kông Chro (Gia Lai).
Cũng như Mỷ, bàn chân cô giáo Quảng thuộc lòng từng lối mòn, khe suối, mỗi nóc nhà ở những buôn, những làng nghe như cổ tích: Sơ Rơ, Sơ Rơng, Lơ Pơ, Tờ Dinh, H Ranh Gió, H Ranh Côn, để vận động các em bé dân tộc Ba Na đến lớp. Nhưng Bùi Thị Quảng còn gian khổ hơn cả Sùng Thị Mỷ, bởi cô là người Kinh. Hẳn những ngọn núi cao, những con suối sâu, những con sông dài mà Quảng đã trèo, đã lội qua, chỉ có trong những trang văn, trang sách học trò phổ thông, trong trí tưởng tượng lãng mạn của một thời thiếu nữ. Giờ những buôn, những làng, những núi cao, sông rộng, những suối sâu ấy trở thành một phần máu thịt trong cuộc đời dạy học của cô rồi.
Cái cách Quảng giữ học trò, "dụ" học trò đến lớp thật đặc biệt, thật bất ngờ, nhưng cũng rất thương. Dạo đó, nhiều nhà ở cái làng Sơ Rơ bị đói. Thương trò quá, cô giáo Quảng cứ một buổi sáng dạy học, một buổi lên rẫy trồng củ mì, như mọi người đàn bà Ba Na tần tảo chịu thương, chịu khó "bán mặt cho đất, bán lưng cho giời". Thu hoạch rồi, hôm nào, Quảng cũng thức dậy sớm, luộc củ mì gùi lên lớp. Bọn trẻ lớp ghép tiểu học đã quá quen cái hình ảnh "mẹ Quảng" gùi củ mì, mùi mì luộc thơm phưng phức từ xa đã khiến chúng nuốt nước bọt ừng ực. Cũng vì thế qua bao mùa khô, mùa mưa đói kém ở cái đất Ba-zan khát gạo, khát chữ này, lớp học của cô giáo Quảng lúc nào cũng đông đủ, hiếm có ngày học sinh vắng mặt. Có lúc, thấy các em nhếch nhác, bẩn thỉu rách rưới quá, Quảng dẫn các em ra suối tắm. Bên đống lửa bập bùng, hệt những trang văn trong "Ðất nước đứng lên", lũ trẻ lom nhom, suýt xoa sưởi ấm, đợi mẹ Quảng vá áo, vá quần cho từng đứa.
Ðiều Quảng ngỡ ngàng và day dứt nhất ở các buôn, làng của người Ba Na trên đỉnh Chư Krei này là hủ tục tảo hôn. Nhiều đứa học trò mới hết lớp 5 đã bắt vợ, bắt chồng. Có những em gái chưa kịp qua tuổi thiếu nữ đã thành thiếu phụ. Ðứa trẻ mới sinh cứ ngặt nghẽo ở lưng người mẹ trẻ gầy guộc, đen nhẻm cắm cúi làm nương, làm rẫy. Hình ảnh ấy thật xót xa, thật tội nghiệp. Quảng bàn bạc với nhà trường, với đồng nghiệp. Rồi những ngày sau đó, người ta thấy, ban ngày lên núi dạy học, ban đêm cô giáo Quảng lại xách đèn, đi đến từng nhà của các già làng vận động bỏ hủ tục tảo hôn bằng tiếng Ba Na mà Quảng đã phải học từ khi bước chân vào bản Sơ Rơ. Ðôi chân của Quảng mải miết đi từ làng Sơ Rơ, đến làng Lơ Pơ, làng Sơ Rơng, những bản làng lọt thơm giữa núi rừng trùng điệp. Các già làng rồi cũng gật đầu ưng cái bụng, rồi các ông bố, bà mế cũng gật đầu. Quảng lại vận động các đoàn viên thanh niên ở các buôn, làng. Nạn tảo hôn giảm dần...
Vậy nhưng không phải lúc nào Quảng cũng thành công. Ngay mới đây thôi, hai học trò của cô, Ðinh Thị Hướt và Ðinh Lơ đã phải lòng nhau sau khi học xong lớp 5 đòi bắt vợ, bắt chồng. Nghe tin Quảng đến tận nhà khuyên giải, nhưng đành chịu. Ðám cưới cô dâu Ðinh Thị Hướt với chú rể Ðinh Lơ vẫn diễn ra. Cả làng Lơ Pơ uống rượu suốt đêm. Rồi bà con các làng Sơ Rơ, làng Sơ Rơng, Tờ Rinh cũng sang mừng. Có rượu, có thịt, có nhạc, có cồng, có chiêng, mà cô giáo Quảng buồn quá...
Nhưng những nỗi buồn ấy lại giống như sợi tơ rừng da diết, khiến Quảng thấy phải gắn bó với buôn, làng, với đỉnh Chư Krei này hơn. Nơi này, trẻ thơ, dân làng còn cần quá những giáo viên, những cô giáo như Quảng. Như bông hoa Pơ Lang cháy hết mình cho vẻ đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ.
Cũng không phải chỉ có Sùng Thị Mỷ, hay Bùi Thị Quảng. Ði khắp các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa rộng dài của đất nước, có thể gặp rất nhiều những cô giáo Mỷ, cô giáo Quảng. Họ là Phạm Thị My, người dân tộc Hre, Trường tiểu học Ba Trang (Ba Tơ - Quảng Ngãi), là Ngô Thị Nguyệt (Trường tiểu học Hồng Giang, Lục Ngạn - Bắc Giang), là Bùi Thị Tráng (Trường tiểu học Tà Chải, Bắc Hà - Lào Cai)... Có người tôi biết và có người tôi chỉ được nghe chuyện. Họ, những phụ nữ, những cô giáo vốn chân yếu tay mềm, nhưng số phận của chính họ và khát vọng văn minh, văn hóa của các buôn, làng, cuộc đời và tương lai của các em thơ người dân tộc thiểu số đã khiến họ can đảm, đã khiến họ "chân cứng, đá mềm" kiên nhẫn, tận tụy dệt nên mạng lưới giáo dục vùng cao, vùng sâu. Họ đã làm nên vẻ đẹp giáo dục trong tít tắp những cánh rừng đại ngàn...