Những “báu vật” biển Jeju

Nắng trải trên làng biển Pyeongdae ở Jeju, một đảo núi lửa xinh đẹp ở Hàn Quốc. Bên những căn nhà thấp với những bức bích họa mô tả cuộc sống của người dân nơi đây, khoảng hơn 20 phụ nữ đang chuẩn bị lội vào dòng nước biển mầu xám thép. Một số đã mặc sẵn bộ đồ bơi dày, kín mít từ đầu tới chân đang mài sắc con dao cong và móc câu của họ, dụng cụ dùng để nậy bào ngư khỏi đá.

Ngày làm việc của các nữ thợ lặn đảo Jeju.
Ngày làm việc của các nữ thợ lặn đảo Jeju.

Cũng như tất cả 120 haenyeo - những nữ thợ lặn trong làng chài này, họ là những người vợ, người mẹ. Họ lặn sâu xuống nước bằng những công cụ thô sơ: bộ đồ bơi, kính bơi, những viên chì thắt quanh eo..., không hề có bình khí hay đồ bảo hộ nào đáng kể. Nhiều thợ lặn giàu kinh nghiệm nói rằng nghề nghiệp của những người phụ nữ của biển ấy chỉ tới độ chín khi bước vào ngưỡng tuổi 60. Bởi phải mất rất nhiều năm xây dựng sức bền và kỹ năng để tìm ra được những vùng khai thác hải sản tốt nhất dưới đáy biển. Họ phải nín thở khoảng hai phút mỗi lần lặn biển và đạt độ sâu ít nhất mười mét dưới làn nước lạnh băng để lấy được những sản vật có giá trị: Cá quân, bào ngư, hải sâm, bạch tuộc, nhím biển... Nhiều phụ nữ chưa bao giờ biết cần giảm bớt áp suất trong tai, một số nhét kẹo cao-su vào lỗ tai và phủ bằng băng dính, có người đã bị điếc. Những chuyến lặn biển ngày nay thường kéo dài khoảng bốn, năm tiếng. Mỗi thợ lặn có thể thu hoạch khoảng một kilo nhím biển hoặc hơn.

Khi những người mẹ cao tuổi nghỉ việc thì con gái họ lại thay thế. Một nửa trong số 4.000 nữ thợ lặn ngày trước giờ đã quá tuổi 70. Hầu hết họ đều học nghề từ mẹ mình ngay khi họ biết bơi. Nhưng từ những năm 1980, nhiều con cái của các nữ thợ lặn đã rời đảo để tìm kiếm việc làm ở các đô thị lớn trong đất liền, nơi tăng trưởng kinh tế bùng nổ. Kang Kyungok là một trong số những người như vậy. Cha cô mất sớm và ở tuổi lên bảy cô bắt đầu thực hiện vai trò của cha mình, chờ mẹ bên bờ biển để chọn ra loại rong biển tốt nhất trong lưới và tách nhím biển để lấy phần ruột mầu vàng có giá trị. Cô bỏ làng để học đại học, kết hôn và định cư ở Busan, thành phố lớn thứ hai của đất nước. Công việc nơi đô thị không được như mong muốn, khi gặp khó khăn về tài chính, cô quay trở lại quê hương và làm việc trong văn phòng ngư nghiệp của mẹ cô. Rồi cô bắt đầu lặn. Giờ đây, ở tuổi 40 cô là một trong những thợ lặn giỏi nhất tại Pyeongdae. Với cô, tiền không phải là sức hấp dẫn chủ yếu, thu nhập một năm của cô từ lặn biển chỉ vào khoảng 12 triệu won (khoảng 10.000 USD). Cô bán thêm cà rốt, khoai tây, củ cải organic để có thêm thu nhập. Trước cô không bao giờ nghĩ sẽ làm nghề này, nhưng giờ cô xác định mình sẽ tiếp tục lặn đến 80 tuổi. Bởi “biển cả là nơi chỉ thuộc về tôi. Trở về với biển như trở về nhà, không còn cuộc sống đầy căng thẳng như trước nữa”.

Cho đến thế kỷ thứ 17, lặn biển vẫn là một nghề của đàn ông. Một số người cho rằng phụ nữ tham gia vào nghề này là do đánh cá xa bờ khiến những người đàn ông phải ra khơi dài ngày, đến khi chuyến đi kết thúc nhiều người không bao giờ trở lại nữa, phụ nữ phải trở thành trụ cột gia đình. Có ý kiến cho rằng họ đã lợi dụng lỗ hổng trong luật chỉ đánh thuế hải sản do đàn ông bắt, và những sản vật phụ nữ thu được hoàn toàn là của họ. Con số nữ thợ lặn lên cao nhất lên đến 23.000 người năm 1965. Những người phụ nữ là chủ lực kiếm tiền trong gia đình và đàn ông làm các công việc phụ giúp.

Nghề này cũng đã có những thay đổi kể từ đó nhưng không nhiều. 50 năm trước các thợ lặn mặc chiếc quần cotton và mang theo trái bí đục rỗng làm phao nổi, giờ họ mặc đồ bơi và cầm những chiếc phao mầu cam sáng. Hầu hết thợ lặn hiện vẫn sử dụng những kỹ năng được truyền thừa từ thế hệ đi trước. Bình khí đã có trong nhiều thập niên nhưng họ vẫn tiếp tục sử dụng các thiết bị đánh bắt sơ khai với ý thức chỉ khai thác vừa đủ. Nghề đánh bắt hải sản ở đây có quy tắc riêng của họ, họ có mùa nghỉ đánh bắt và kích cỡ tối thiểu cho phép khai thác bào ngư. Các thợ lặn thường đánh dấu chiều dài cho phép trên dao của họ. Tại Saekdal, vòng lặn hằng tháng cho phép phụ nữ làm việc bảy ngày liên tục và sau đó phải nghỉ tám ngày.

Những người chồng chờ đợi bên bờ biển không còn cần thiết nữa. Một chiếc ròng rọc trên đường trượt tại Pyeongdae gần đây được lắp đặt nhằm kéo những tấm lưỡi nặng trĩu lên. Những thay đổi này phản ánh sự công nhận công việc này không chỉ là một nghề kiếm sống mà như một nét văn hóa đặc sắc. Trong nhiều thế kỷ đây từng là nghề của những phụ nữ nghèo bị quên lãng. Nhưng năm 2016 nghề lặn truyền thống ở Jeju đã được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO và năm ngoái nó được đưa vào kho báu quốc gia của Hàn Quốc. Dù vậy, lặn biển không phải là một nghề hấp dẫn với số đông. Trái lại, từ lâu nó vẫn bị xem là một công việc thấp hèn trong xã hội nặng về khoa cử. Bà Kang Myeongsun, người phụ nữ 66 tuổi đứng đầu nhóm thợ lặn ở Saekdal, vùng bờ biển phía nam Jeju nói: “Khi còn trẻ, tôi buộc phải bỏ cặp sách để đi lấy rong biển. Lặn là cách duy nhất để sống sót”. Như hầu hết những phụ nữ khác vào thời ấy, Kang lặn ngay cả khi mang bầu và chỉ nghỉ trước ngày sinh nở vài hôm.

Nghề này giờ hấp dẫn một số lượng nhỏ những thanh niên muốn thoát khỏi áp lực ở đô thị. Một số đã tới đảo Jeju và yêu thích nghề lặn biển. Trường Hansupul mở cửa năm 2008 với những khóa lặn biển cấp tốc dành cho khách du lịch bắt đầu khóa huấn luyện chuyên nghiệp vào năm ngoái và đưa 15 học trò nam và nữ đi thực tập tại các cơ sở đánh bắt hải sản trên đảo. Kim Eunjoo là một thợ lặn mới sinh tại Seoul. Cô chuyển tới Jeju sau khi bị sa thải khỏi một công ty an ninh trong thời kỳ khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Vốn là một thợ lặn không chuyên, cô đã theo những lớp học cuối tuần tại trường của các nữ thợ lặn, và tham gia một hợp tác xã gồm tám phụ nữ tại Gongchunpo. Hai vợ chồng cô đang tìm kiếm tương lai trên hòn đảo này.

Mối quan hệ gắn kết chặt chẽ là một phần sức hấp dẫn của nghề. Kang nhớ lại những mẻ lưới đầu tiên của bà rất sơ sài, nhưng những thợ lặn có kinh nghiệm sẽ bỏ một số trai sò vào lưới của cô để động viên và cầu chúc may mắn. Nhưng một số nữ thợ lặn bản địa cho rằng các cư dân thành phố trẻ tuổi chỉ xem công việc này như một sự chuyển hướng nhất thời. Tại một số cơ sở đánh bắt hải sản trên đảo, những người mới vào nghề phải trả một mức phí gia nhập từ một đến ba triệu won, gần bằng một phần ba yêu cầu để được cư trú trong làng của họ. Nhưng có dân đảo mới làm nghề đã gần chục năm mà vẫn chưa được công nhận là thành viên. Kim và chồng cô đã cố gắng hòa nhập cộng đồng này. Họ tổ chức chợ bên bờ biển để gây quỹ cho các nữ thợ lặn cao tuổi, được nhiều người địa phương hưởng ứng. Nhưng cô vẫn đang vật lộn với phương ngữ Jeju và thú nhận rằng đôi khi vẫn cảm thấy mình như người ngoài.

Bất chấp lối sống khép kín, văn hóa haenyeo có một sức lôi cuốn đương đại trong một xã hội đàn ông thống trị. Là những người mẹ làm việc, các nữ thợ lặn trở thành những người kiếm tiền chủ yếu. Vì vậy, trong một số gia đình, vai trò truyền thống bị đảo ngược. Kang nói chồng cô chải tóc cho con cái, đưa chúng đi học, và làm việc nhà, thậm chí còn làm kim chi nữa. Họ là nhân chứng cho những thay đổi về lối sống cũng như môi trường. Họ làm việc theo nhịp độ của biển cả. Khi những bạn đồng niên ở đô thị đến tuổi nghỉ hưu, những phụ nữ của biển sẽ chỉ đạt tới đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình.