Nhập siêu nhiều từ châu Á, tại sao?

Cụ thể, nhập siêu của Việt Nam với Đài Loan là gần 2,2 tỷ USD, Hàn Quốc hơn 2,1 tỷ USD, Singapore gần 1,9 tỷ USD, Trung Quốc gần 1,4 tỷ USD, Thái-lan gần một tỷ USD, Hồng Công hơn 0,6 tỷ USD, Malaysia gần 0,5 tỷ USD. Chỉ với bảy nước và vùng lãnh thổ này, Việt Nam đã nhập siêu đến 9,6 tỷ USD, lớn gần gấp đôi tổng nhập siêu của cả nước. Do vậy mà việc xuất siêu sang các châu lục khác cũng không đủ bù cho nhập siêu từ châu Á, làm cho tổng nhập siêu của cả nước gia tăng nhanh.  

Điều đó nói lên cái gì và tại sao lại như vậy?  

Trước hết là về quan điểm, nhiều người vẫn cho rằng, đối với những nước đang phát triển - nhất là những nước mới mở cửa hội nhập - thì nhập siêu là khó tránh khỏi và là rất cần thiết, chẳng những để đổi mới kỹ thuật - công nghệ mà còn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng lên cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả, mẫu mã... Về vấn đề này, nếu nhìn rộng ra trên thế giới thì không hoàn toàn như vậy. Các nước phát triển đã chuyển từ xuất siêu sang nhập siêu (nếu năm 1995 xuất siêu 34 tỷ USD thì nay nhập siêu lên đến hơn 300 tỷ USD), trong đó Mỹ trên 500 tỷ, Anh gần 60 tỷ, Tây Ban Nha hơn 40 tỷ... Trong khi đó, các nước và vùng lãnh thổ đang phát triển lại chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu (nếu năm 1995 còn nhập 108 tỷ USD, thì nay xuất siêu hơn 100 tỷ), trong đó Nga hơn 40 tỷ, Trung Quốc hơn 30 tỷ, Đài Loan gần 18 tỷ, Malaysia hơn 13tỷ, Indonesia gần 13tỷ, Hàn Quốc hơn 10tỷ, Singapore gần chín tỷ, Thái-lan hơn bốn tỷ... Hẳn còn nhớ, khi Việt Nam mới mở cửa hội nhập, trong chuyến thăm Việt Nam, Thủ tướng Thái-lan lúc đó có một câu nói nổi tiếng “biến chiến trường thành thị trường”. Thái-lan đã tận dụng thời cơ này; Việt Nam ngay sau đó đã là thị trường không nhỏ của Thái-lan và nhập siêu từ Thái-lan cũng gia tăng (năm 1995 là 338 triệu USD, năm 2000 là 439 triệu USD, năm 2001 là 470 triệu USD, năm 2002 là 728 triệu USD, năm 2003 là 946 triệu USD...).  

Mở cửa hội nhập để xuất khẩu được nhiều hơn nhằm nhập khẩu kỹ thuật - công nghệ, nhưng là thực hiện cam kết hội nhập với các nước trong khu vực ASEAN, rồi ASEAN + 3..., khi thuế suất thuế nhập khẩu được cắt giảm theo lộ trình, nếu không nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thì không những không tận dụng được cơ hội mà thách thức sẽ gia tăng, thậm chí chẳng những không thắng trên “sân người” mà còn thua ngay trên “sân nhà”. Nếu càng mở cửa hội nhập mà nhập siêu càng gia tăng thì hội nhập sẽ không thành công. Đó là điều cảnh báo rất cần thiết cho thời gian tới, bởi việc mở cửa, hội nhập sẽ ngày càng sâu, rộng hơn, nhất là thực hiện đầy đủ hơn cam kết hội nhập với các nước ASEAN, với Hoa Kỳ, đặc biệt khi gia nhập WTO.  

Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đi các nước nếu có kim ngạch lớn lên đến một mức độ nhất định thì thường bị các rào cản như hạn ngạch, kiện bán phá giá hết cá ba sa, ca da trơn lại đến tôm, rồi vệ sinh thực phẩm... Nhưng hàng hóa của các nước nhập khẩu vào Việt Nam lại “thoải mái” không bị ràng buộc về tiêu chuẩn kỹ thuật, thậm chí còn nhập cả “rác” như báo chí đã nói nhiều. châu Mỹ, châu Âu, Nhật Bản là thị trường có công nghệ nguồn; nhập khẩu từ các thị trường này, nhất là nhập khẩu máy móc, có tác dụng đổi mới kỹ thuật - công nghệ lại chưa nhiều. Còn thiết bị ở thị trường châu Á nhìn chung chưa phải là công nghệ nguồn, trong một số trường hợp còn là ở trình độ kỹ thuật - công nghệ thấp, do không tiêu thụ được ở thị trường trong nước hoặc nước khác đã được đưa vào Việt Nam. Điều đó chứng tỏ khâu tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm tra tiêu chuẩn kỹ thuật hàng nhập khẩu của nước ta chưa được quan tâm đúng mức, nếu không được tăng cường sẽ tiếp tục diễn ra việc nhập “rác” hoặc nhập kỹ thuật - công nghệ lạc hậu kiểu máy đường, xi măng lò đứng...  

Một mặt khác nữa là châu Á là thị trường gần, chi phí vận chuyển ít, có nhiều mặt hàng tương đồng về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả... vừa thuận cả cho nước ta, vừa thuận cả cho các nước trong khu vực này. Các nước đã tận dụng tốt hơn nước ta; nếu thuế suất thuế nhập khẩu giảm xuống nữa theo cam kết thì nhập siêu ở khu vực, ở châu Á sẽ còn gia tăng hơn nữa.  

Một mặt rất quan trọng khác là tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn, trong khi công nghiệp chế biến tăng trưởng chậm, công nghiệp phụ trợ ở trong nước và thị trường trong nước chưa được chú trọng, tâm lý chuộng hàng ngoại còn nặng...  

Tình hình trên đáng để các nhà quản lý điều hành vĩ mô, các doanh nghiệp và người tiêu dùng quan tâm xử lý, góp phần cải thiện vị thế trong quan hệ buôn bán với các nước.

Có thể bạn quan tâm