Trước đây, nhiều vùng tôm ở Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân… quanh năm nước mặn, sản xuất, sinh hoạt đều gặp khó, thì nay người dân đã biết bảo vệ khu vực giữ ngọt riêng vài nghìn mét vuông để nuôi trồng thêm các loại cây con theo hệ sinh thái ngọt -lợ, hoặc biết chọn những đối tượng cây trồng vật nuôi thích hợp theo mùa, hình thành các mô hình V.A.C hết sức độc đáo, nhiều hộ thu về hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng/năm.
Tuy nhiên, để phát triển tốt yếu tố vườn (V), người dân nên có quy hoạch, chọn bố trí V ở nơi tiện giữ ngọt thích hợp nhất, đồng thời chia ra hai phần nhỏ riêng: phần chứa đất mới đổ khi dọn vệ sinh ao đầm nuôi thủy sản và nước rỉ trong quá trình sên vét, do đất mới, ô nhiễm nhiều thứ khó có thể trồng trọt gì được ngay, và phần đã cải tạo tốt có thể trồng trọt được nhiều loại rau màu, cây ăn trái như bắp, đậu, bầu bí, thậm chí cả sa-pô, cam, chuối, xoài, dừa lùn, cây ăn trái thông thường, nhất là các loại rau củ quả, cây gia vị dùng trong bữa ăn hằng ngày để tiết kiệm tiền mua rau chợ. Chú ý đối với những loại cây trái thời gian sinh trưởng dài, hưởng huê lợi lâu nên bố trí nơi đất ổn định, gần nguồn nước xả ngọt, và có điều kiện nên kết hợp với hộ liền kề để cùng ngăn phèn-mặn, cùng bảo vệ “vùng ngọt cục bộ”, nhất là trong mùa khô bốn bề đều mặn.
Đối với các ao đầm (A), gồm tất cả diện tích mặt nước được thiết kế, xây dựng hoàn chỉnh, mà mục đích trước đây chỉ để nuôi tôm sú. Nhưng gần đây, qua nhiều vụ thất bại vì dịch bệnh tôm, vì tôm mất giá… nhiều nông dân đã biết thay thế hoặc nuôi xen canh, luân canh với tôm bằng các loài thủy sản có giá trị khác và đạt hiệu quả kinh tế cao, như cua biển, cá kèo, sò huyết…
Thực tế cho thấy người dân vẫn chưa khai thác tốt yếu tố A, vì còn bỏ sót khá nhiều đối tượng tuy là cá tạp tự nhiên nhưng hiện rất có giá trị kinh tế như cá nâu, cá đối, cá chốt đồng, ốc len… Nếu ứng dụng linh hoạt các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chọn đúng đối tượng nuôi phù hợp theo mùa vụ, phù hợp nhu cầu thị trường, thì ngoài con tôm, những đối tượng khác đó vẫn có thể giúp nông dân tăng thêm thu nhập khá từ yếu tố ao đầm sẵn có.
Do đặc thù của nuôi thủy sản vùng mặn-lợ cần phải giữ cho nguồn nước thanh sạch, ít bị ô nhiễm càng tốt, cho nên đối tượng nuôi cũng phải chọn những loài ít chất thải để ít gây ô nhiễm. Nhiều hộ dân không nuôi, hay chỉ nuôi rất ít gia súc, gia cầm và có chuồng riêng, hoặc nuôi rắn ri tượng, cá sấu… để có thể tận dụng cá tạp rẻ tiền của ao đầm làm thức ăn cho chúng, nhất là cá phi, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Thực tế trong việc phát triển chuồng chăn nuôi (yếu tố C) sẽ còn có nhiều đối tượng tiềm năng và có giá trị cao, tùy sở thích và điều kiện từng chủ hộ chọn, như trăn, rắn hổ hèo, nuôi dê, lợn rừng… nếu biết chịu khó và liên kết tổ chức sản xuất tốt sẽ có lợi nhuận cao và bền vững. Chưa kể chất thải từ chuồng nuôi qua hệ thống biogas trở thành nguồn chất đốt lý tưởng, tiện lợi cả đôi đường.
Để các mô hình canh tác V.A.C trên vùng mặn - lợ có thể phát triển tốt và bền vững, góp phần thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông, ngư nghiệp, giúp nông dân thoát khỏi đói nghèo, nông dân cần có sự tổ chức, liên kết nhau để thực hiện các mô hình theo phương châm “đa canh hộ, nhưng chuyên canh vùng” nhằm tạo ra nguồn hàng hóa lớn và dễ cùng nhau chăm sóc, bảo vệ, tiêu thụ sản phẩm, giúp mang lại hiệu quả cao hơn về kinh tế, đời sống, môi trường, và tình làng nghĩa xóm cũng gắn bó bền vững hơn.