Ðầu tư phát triển
Ngay sau khi triển khai hoạt động theo mô hình tổng công ty, các thành viên Tổng công ty Xi-măng Việt Nam đã phát huy nội lực, tự lo vốn, tập trung sức lực và trí tuệ để triển khai đầu tư mở rộng và hoàn thành dây chuyền 2 Nhà máy xi-măng Hoàng Thạch có công suất thiết kế 1,2 triệu tấn/ năm đưa vào sản xuất năm 1996 và hoàn thành xây dựng Nhà máy xi-măng Bút Sơn (Hà Nam) có công suất thiết kế 1,4 triệu tấn/năm đưa vào hoạt động giữa năm 1999; đồng thời góp vốn liên doanh xây dựng các Nhà máy xi-măng Chinfon (Hải Phòng), Nhà máy xi-măng Sao Mai (Hòn Chông - Kiên Giang), Nhà máy xi-măng Nghi Sơn (Thanh Hóa), và một số trạm nghiền xi-măng của các địa phương. Ngoài ra, Tổng công ty còn tập trung vốn chuẩn bị cải tạo, nâng công suất Nhà máy xi-măng Bỉm Sơn, đầu tư xây dựng Nhà máy xi-măng Hải Phòng (mới), với tổng vốn đầu tư cho các dự án trong giai đoạn 1995-2004 là hơn 15 nghìn tỷ đồng, trong đó tự đầu tư cải tạo là 7.300 tỷ đồng và góp vốn liên doanh 1.200 tỷ đồng.
Tổng công ty Xi-măng còn mạnh dạn tiếp nhận năm doanh nghiệp thuộc các địa phương và tổng công ty khác gặp khó khăn trả nợ vốn vay, hoặc sản xuất kinh doanh thua lỗ. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự đoàn kết nhất trí, Tổng công ty đã huy động được sức mạnh tổng hợp của tất cả các đơn vị thành viên để khắc phục khó khăn, huy động nguồn lực nội bộ cũng như bên ngoài, đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn để đẩy mạnh đầu tư. Ðến nay, các dự án xi-măng Hoàng Mai, cải tạo nâng công suất dây chuyền 2 của xi-măng Bỉm Sơn, cải tạo môi trường nâng công suất xi-măng Hà Tiên 1 và gần đây nhất là dự án xi-măng Tam Ðiệp (1,4 triệu tấn/năm) đã lần lượt đi vào hoạt động, góp phần tăng sản lượng xi-măng đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước. Năm 2004, Tổng công ty đã cung cấp cho thị trường 12,4 triệu tấn sản phẩm, tăng gần năm triệu tấn so với năm 2000. Doanh thu đạt 12.800 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Tổng công ty Xi-măng Việt Nam còn thường xuyên thực hiện nghĩa vụ bảo đảm cân đối lớn của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu xi-măng và bình ổn giá trên thị trường.
Bình ổn thị trường
Từ năm 1995 về trước, sản lượng xi-măng của Tổng công ty Xi-măng Việt Nam chiếm hơn 80% tổng sản lượng
xi-măng sản xuất trong cả nước, những thời điểm nhu cầu xi-măng có khả năng tăng, tổng công ty đã chủ động xin nhập khẩu clanh-ke để tận dụng năng lực nghiền và nhập khẩu xi-măng để cân đối cung cầu. Ðến năm 1997, với sự tham gia của các liên doanh và xi-măng của các ngành, địa phương, sản lượng xi-măng sản xuất đã tăng đáng kể, lượng xi-măng nhập khẩu giảm. Thị phần xi-măng của Tổng công ty Xi-măng Việt Nam còn khoảng 60%. Tuy nhiên, tổng công ty vẫn là một doanh nghiệp lớn, là lực lượng chủ lực trong bảo đảm cân đối về nhu cầu xi-măng trong nền kinh tế quốc dân, nhưng không ở vị thế độc quyền. Giai đoạn 2001-2004 thị phần xi-măng của tổng công ty dao động khoảng 50% (không kể phần sản lượng theo tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh).
Mặc dù thị phần giảm, giá vật tư đầu vào tăng, nhưng thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tổng công ty đã thực hiện tốt nhiệm vụ bình ổn giá cả thị trường xi-măng theo nhiệm vụ được giao. Ðể làm được nhiệm vụ này trong khi giá cả vật tư đầu vào, cước vận tải, giá clanh-ke nhập khẩu tăng,... Tổng công ty đã tập trung chỉ đạo các đơn vị thành viên chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa máy, thiết bị vào những thời điểm nhu cầu thị trường xuống thấp như mùa mưa và Tết Nguyên đán. Khi nhu cầu thị trường tăng cao, các đơn vị thành viên huy động cao nhất công suất của thiết bị. Khẩn trương đưa các nhà máy xi-măng mới vào sản xuất, góp phần tăng thêm nguồn cung để bảo đảm ổn định thị trường. Từ đầu năm 2005 đến nay, xi-măng Tam Ðiệp đã cung cấp cho thị trường khoảng 170 nghìn tấn sản phẩm các loại (cả xi-măng và clanh-ke, không kể sản lượng luân chuyển nội bộ).
Các đơn vị thành viên tăng cường lượng dự trữ xi-măng và dự trữ clanh-ke. Lượng dự trữ đến nay đạt từ 1,4 đến 1,5 triệu tấn (trong đó khoảng 450 nghìn tấn xi-măng và gần 1 triệu tấn clanh-ke). Tổng giá trị của lượng dự trữ lên tới hơn 1.000 tỷ đồng, đây là mức dự trữ cao nhất từ trước tới nay và bằng sản lượng sản xuất của một nhà máy trong một năm. Ðể bảo đảm ổn định thị trường tất cả các khu vực trên phạm vi cả nước tổng công ty đã tiến hành điều hòa nguồn cung trong phạm vi cả nước. Từ đầu năm 2005 đến 12-6 tổng công ty đưa từ bắc vào nam gần 120 nghìn tấn (bao gồm sản phẩm và bán sản phẩm của các công ty xi-măng: Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Bút Sơn, Tam Ðiệp...). Ðồng thời, mở rộng phương thức sản xuất xi-măng Hoàng Thạch tại một số cơ sở, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu cho miền trung, từng bước mở rộng thị trường, giảm chi phí vận tải, làm tăng thị phần cho thương hiệu xi-măng Hoàng Thạch là loại xi-măng được thị trường ưa chuộng.
Trước tình hình lượng clanh-ke sản xuất trong nước thiếu hụt, tổng công ty chủ động nhập khẩu, bình quân mỗi năm từ 600 nghìn tấn đến 1 triệu tấn; đồng thời, củng cố lại hệ thống kinh doanh, tăng cường kiểm tra giám sát các đơn vị thành viên, chấp hành ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về không tăng giá bán xi-măng, nhất là tại các địa bàn chính. Ðồng thời thông báo công khai hệ thống cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của tổng công ty, giá bán đối với từng chủng loại sản phẩm để khách hàng biết và giám sát. Tổ chức rà soát các định mức kinh tế - kỹ thuật, nhằm tiết kiệm chi phí trong sản xuất từ 10 nghìn đồng đến 15 nghìn đồng/tấn sản phẩm, hạ thấp chi phí lưu thông 10 nghìn đồng/tấn sản phẩm để bù vào phần chi phí đầu vào tăng.
Tổng công ty Xi-măng Việt Nam là doanh nghiệp nộp ngân sách hằng năm gần 1.000 tỷ đồng, luôn là lực lượng chủ lực cung cấp xi-măng đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, là công cụ để Nhà nước điều tiết và bình ổn thị trường xi-măng cả nước. Thực hiện Quyết định số 241/QÐ-TTg ngày 4-3-2003 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Xi-măng Việt Nam đang tổ chức nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm thành lập "Tập đoàn công nghiệp xi-măng Việt Nam" để trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, một công cụ điều hành quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần vào sự nghiệp CNH, HÐH đất nước.