Người nông dân làm hồi sinh "vùng đất chết"

Suốt đời ông Ngô Đức Nhật chỉ quẩn quanh bên những đồi cát trắng Tuy Phong, Bình Thuận - đoạn giữa của vùng đồng bằng Tam Phan (Phan Giang, Phan Rí - Phan Thiết) khô cằn với cơ man những trận gió hoang đuổi nhau sàn sạt suốt mùa đông. Cả chuyện lầm lũi 20 năm ròng (1975 - 1995) dọn sạch cả bãi mìn rộng trên mấy ha, ông cũng chẳng thấy có gì đáng để gọi là kỳ tích. Giản dị thôi, là nông dân nên ông khát đất. Ông gỡ mìn chỉ để đám con nít có thêm mảnh đất trống chạy sướng chân, cho vợ con ông có thêm miếng đất trồng cà, trồng ớt. Ông bảo "tôi rất nhát".

Ông Ngô Đức Nhựt dời nhà từ thị trấn Phan Rí Cửa ra xóm 6, thôn Vĩnh Sơn, xã Vĩnh Hảo cùng huyện Tuy Phong. Gọi là đi kinh tế mới, nhưng không có đất, Ngô Đức Nhựt chỉ còn cách vác cuốc đi làm mướn và phụ với vợ là bà Đào Thị Nữ buôn bán gà vịt, kiếm tiền mua gạo nuôi ba đứa con, đứa lớn 5 tuổi, đứa nhỏ mới hơn một tuổi.

Xã Vĩnh Hảo chỉ là mảnh đất rừng hoang núi trọc, đất nông nghiệp hầu như không có, công trình thủy lợi cũng không, cho nên việc nhà nông cũng chẳng mấy ai thuê.

Không thể sống mãi với bi kịch người nông dân không có đất, ông quyết tâm phải khai phá đất hoang để tạo cơ nghiệp cho mình. Bước ra khỏi sân nhà anh là một mảnh đất hoang khá màu mỡ, rộng bao la hơn 5 ha. Vào mùa mưa, có mọc ngút ngàn, nhìn xanh um sướng mắt, con mắt nông dân ngó thấy là mê. Nhưng đó là là một vùng đất chết. Ngày xưa bãi đất ấy là căn cứ của Sư đoàn 28, quân đội Sài Gòn, nơi trú đóng của hàng chục cố vấn Mỹ và các tiểu đoàn 299, 110 và 111. Để ngăn chặn sự tập kích của quân cách mạng, toàn bộ vùng đất quanh hàng rào doanh trại đều bị ngụy quân ủi trắng và cài mìn dày đặc. Một tháng sau ngày dựng nhà, ông đã phải chứng kiến cảnh chết chóc đầu tiên ngay giữa thời bình. Đang ăn trưa bỗng nghe ba tiếng nổ hai nhỏ một lớn nối nhau, anh vội quăng bát chạy ra. Quá muộn! Cuốc cỏ ngay sát bên nhà, ông Dương Văn Bốc vô tình cuốc phải một quả mìn cóc (mìn sát thương nhẹ) đổ ập xuống, đầu đập xuống đất kích nổ tiếp một trái mìn cóc khác khiến cả người bật ra, đè hẳn lên một quả mìn ba râu (anti personal mine - mìn chống bộ binh) và toàn thân bị nát bấy.

Không còn cách nào khác, ông Ngô Đức Nhựt đã phải dò dẫm vào giữa bãi mìn ôm xác nạn nhân ra. Sau ông Bốc, ông còn bất đắc dĩ phải thêm 6 lần nữa lặp lại những động lác đau đớn ấy để đưa thêm sáu nạn nhân khác ra khỏi bãi mìn... Cả xóm, ngoài ông không còn ai dám làm chuyện ấy bởi duy nhất chỉ một mình ông có kiến thức về mìn, được huấn luyện trong 7 năm tham gia lực lượng phát triển hương thôn...

Người còn biết đường tránh, con trâu, bò, dê, chó thì không lên tiếng, mìn cứ nổ liên tục. Nhà nuôi được 4 con bò, bãi mìn cũng đã giết mất hai con. Ba đứa trẻ con ông, không một lần dám thò chân ra đám cỏ ngay cạnh nhà của chúng, suốt ngày chỉ ru rú trong xó bếp. Nhìn mắt chúng ngó thèm thuồng mảng xanh trước mặt, ông Nhựt vừa lo lắng vừa đau đớn. Đến khi cậu bé Ba Cà, 7 tuổi ở kế bên đạp phải mìn cóc, bung mất nửa bàn chân thì sự chịu đựng, có cả sự thụ động lẫn nỗi sợ hãi bản năng của ông Nhựt chấm dứt. Ông quyết định phải tháo bỏ mối nguy, ít nhất cũng rà phá để kiếm một vuông sân cho ba đứa con có chỗ chạy nhảy đỡ tù chân.

Dù có chút ít kiến thức nhưng lần đầu tiên chạm tay vào lớp vỏ mầu xanh bằng chất dẻo của trái mìn, ông Nhựt vẫn toát mồ hôi, tay chân bủn rủn, tim đập thình thịch. Nhưng khổ nỗi, ngoài một lưỡi theo (lưỡi xẻo) và kìm, búa, ông Nhựt không hề có một dụng cụ hỗ trợ hay phương tiện bảo hộ gì khác. Chỉ cần sơ ý, để rơi kìm lên trái mìn hoặc khi đào để cò nổ bật lên, trái mìn sẽ nổ ngay. Mìn cóc chỉ nặng chừng 100g, nếu nổ mà mảnh không chạm chỗ hiểm, kẻ liều mạng có thể chỉ bị thương. Nhưng khi ngã xuống, ông có thể giẫm, đạp lên mìn ba râu (chứa 0,5 kg thuốc nổ, có ba hạt nổ nằm phía trên), lúc đó cầm chắc sẽ là tan xác. Phải mất trọn một ngày nghiên cứu, ông mới nắm được "cách trị" hai loại mìn này. Với mìn ba râu, ông phải nhẹ nhàng phủi hết lớp đất trên mặt, dùng cờ lê số 17 tháo lần lượt từng kíp nổ, vô hiệu hóa quả mìn xong mới bới nó lên. Với mìn cóc thì ngược lại phải moi đất dưới quả mìn, tay cầm, tay đỡ, đưa cả trái mìn lên, sau đó mới giữ chặt ngòi nổ và dùng kìm tháo ren ngòi nổ nằm phía bên dưới.

Ban đầu, chưa có kinh nghiệm, ông Nhựt không dám gỡ nhiều, mỗi ngày chỉ gắng gỡ một quả mìn ba râu và một trái mìn cóc. Sợ sơ sẩy, ông cũng không dám gỡ trong mùa nắng, phải đợi mùa mưa, đất mềm ra, dễ ấn lưỡi xẻng (không lắp cán) ăn sâu vào đất. Bom mìn không có mắt, dù tay đã bớt run, tim đã bớt đập, ông vẫn không dám ấn xẻng xúc đất mạnh tay, sợ trật chỗ hoặc sơ ý xúc xẻng phải ngòi nổ. Mà cũng chỉ khi mắt đã nhìn rõ vỏ quả mìn, ông mới dám thao tác, tuyệt đối không dám làm bừa. Mìn gỡ xong, ông Nhựt đào hai hố sâu, một hố chôn kíp nổ, một hố chôn vỏ và thuốc nổ. Trước khi lấp đất, ông còn cẩn thận đổ muối bột lên cả kíp lẫn mìn cho nó mau mục... Ngoài hai loài phổ biến là mìn cóc và mìn ba râu, thỉnh thoảng ông Nhựt cũng phát hiện được cả đạn M-79 còn xanh chóa ánh đồng và mìn clây-mo (mìn định hướng). Với M-79 thì khá đơn giản, ông Nhựt có thể áp viên đạn lên tai, nghe tiếng nhả rong ro ro là có thể đoán được khả năng sắp nổ hay chưa, chỉ việc vứt xuống hố sâu và rải muối... Với mìn phốt pho thì tuyệt đối không dám đùa. Chỉ lôi nó lên khỏi mặt đất là lo chạy ngược lại ngay. Chỉ trong chốc lát, miếng chất dẻo mỏng đã mục sẽ vỡ ra, phốt pho gặp không khí sẽ cháy kích hoạt cả quả mìn nổ ngay, chậm chân là chết.

Lâu dần thành quen, thao tác gỡ mìn của người nông dân Ngô Đức Nhựt đã trở nên nhuần nhuyễn và chính xác. Cảm giác sợ cũng biến mất. Ông Nhựt đã tìm được quy luật bố trí của cả bãi mìn rộng mấy ha. Mìn cóc cứ được chôn mỗi cụm ba quả thành hình tam giác cân, mỗi cạnh tam giác đúng 2m. Chính giữa tam giác ấy là một quả mìn ba râu, nằm cách đều mỗi trái mìn cóc 1,2m. Không rần rà, chỉ cần xác định được trái mìn cóc đầu tiên và lấy thước ra đo, đủ khoảng cách đúng quy luật là ấn lưỡi xẻng xuống lôi lên đủ những quả mìn còn lại, trăm lần không một lần sai. Vậy là bận bịu thì thôi, còn hễ rảnh rỗi, ông Ngô Đức Nhựt lại mang xẻng, kìm, cờ lê ra ngồi kỳ cạch suốt buổi ngoài bãi mìn. Trời mát thì làm, nắng quá thì nghỉ. Trung bình mỗi ngày ông gỡ được 15 - 20 quả mìn, cá biệt có hôm còn gỡ được gần 30 quả. Mìn gỡ lên quá nhiều, tháo kíp xong cũng chẳng biết chôn lại vào đâu, ông gánh luôn ra xã nộp. Cứ 10 bữa, nửa tháng, người dân xã Vĩnh Hảo lại khiếp sợ đứng xa mà ngó cha con kẻ giỡn mặt tử thần gánh một gánh... mìn ra sân ủy ban xã trút một cái ào rồi quay về, cứ như thể gánh khoai ra chợ.

Đào mìn như đào khoai. Chỉ có vợ con ông là thấp thỏm lo suốt mấy nghìn ngày, không biết bao giờ giữa bãi đất mênh mông kia sẽ lạnh lùng vọt lên một tiếng nổ...

Ngày định mệnh ấy xảy ra vào cuối năm 1990. Mùa khô, đất chai và cứng. Trong khi gỡ một cục đá để lấy chỗ luồn kìm tháo chốt một quả mìn cóc, ông đã sơ ý để kìm trượt lên mặt cục đá đập lên vỏ quả mìn. Sau tiếng nổ, 2 con bò nhà ông phải bán đi để lấy tiền cho ông nằm viện. Tai nạn đã tước đi vĩnh viễn con mắt trái của ông nhưng không loại ông ra khỏi cái "nghiệp" gỡ mìn. Có khác đi một chút là từ đó, trên bãi mìn, ông Nhựt không còn chỉ thui thủi một mình. Nghề chuyên môn không sinh lợi của ông đã được cậu con trai út Ngô Khắc Pháp kế tục và đồng hành.

Ít lâu sau đó, bãi mìn được quy hoạch. Đại đội công binh C19 được quân đội điều về thay ông rà phá diện tích bom mìn còn lại. Không ai hỏi ý kiến hay kinh nghiệm gì ông nửa câu. Sau khi sử dụng máy rà, bộ đội đã dùng thuốn nhọn để xăm dò chất nổ. Lần thứ nhất, một chiến sĩ bị cụt nửa bàn chân. Lần thứ hai, thêm một anh bị thương hỏng mắt. Hoảng quá anh chỉ huy tên Nhật phải tìm đến ông. Kiểm tra lại ông phát hiện ra một sai lầm chết người: máy rà chỉ phát hiện được mìn ba râu có vỏ bằng kim loại nhưng lại dễ bỏ sót mìn cóc, vỏ bằng nhựa cứng. Nghe lời ông, đơn vị công binh đã bỏ thuốn sắt dùng lưỡi xẻng, lưỡi vạt bằng gỗ để thao tác. Từ đó không một tiếng nổ nào xuất hiện nữa, ông Nhựt cũng bỏ thời gian làm chung, vừa làm vừa hướng dẫn cho bộ đội. Đến giữa năm 1995, toàn bộ "vùng tử địa" đã được dọn sạch mìn. Riêng phần mình, ông Nhựt đã tự tay gỡ sạch mìn trên một diện tích 2,2 ha.

Đề nghị ông ước chừng số mìn đã tự tay tháo gỡ, ông Nhựt bảo: "Khiêm tốn thì chú cứ ghi là 5.000 quả, nhưng tôi thì khẳng định là 10.000, không thể dưới". Trong suốt 20 năm, không tháng nào ông Nhựt không gánh vô xã nộp tối thiểu 1-2 gánh mìn. Thế nhưng, công sức của ông không được những người có trách nhiệm ở địa phương ghi nhận.

Bây giờ, ông Ngô Đức Nhựt đã như ngọn đèn cạn dầu, tàn bấc. Cách đây 10 năm, vợ ông đã qua đời vì tai nạn giao thông. Tuổi già, lực kiệt, ông giao hết căn nhà và mảnh vườn đánh đổi cả đời bằng máu và nước mắt cho anh con trai Ngô Khắc Pháp, theo một người vợ gá nghĩa về xã Phú Lạc cách Anh Hải 8 km dựng một căn chòi lá trên đồi cát sống lắt lay. Bà đi làm thuê nuôi ông đau ốm triền miên, không tiền chữa trị, lao phổi đã ăn rã mục một lá phổi của ông. Tháng Chạp, gió lùa về tơi bời qua triền cát, cơ hồ sắp thổi tung căn lêu nát có ông già hom hem trong đó. Sợ nắng, sợ gió, ông đóng chặt cửa, ngồi rên khừ khừ trong bóng tối. "Mình có tự trọng, không thể để dâu con thấy cảnh lê lết thế này. Con chăm cha không bằng bà chăm ông..." - ông bỏ dở nửa chừng câu nói xót xa bằng giọng của một người đang phải cậy nhờ kẻ khác.

Năm 2003, xã thu hồi của ông 3.800 m2 đất đang trồng điều để xây trường cấp II. Thỏa thuận đền là 3,2 triệu đồng/1.000 m2 đất, ông bảo, đến nay ông cũng mới nhận được 70% tiền đền bù (8 triệu đồng), số còn lại "phải trả cho tôi mua thuốc uống chứ, đất đó tôi gỡ mìn mới có mà". Trước đó nữa, năm 2002, "một ông đạo diễn to con, râu xồm như Tây có tìm về quay một bộ phim về ông, tựa phim khá ấn tượng là Vùng đất chết. Ông nhớ rất rõ (và chúng tôi biết là ông không hề nhầm), ông đạo diễn tên là B.T.C đã "xoay" ông suốt cả tháng trời trên bãi mìn xưa để "làm phim dự thi quốc tế". Ông nghe nói "phim đoạt giải bên Tây, và được tiền thưởng, nhưng xong là thôi, chẳng ai đoái hoài đến ông, dù ông "đóng nhân vật chính suốt cả tháng trời". Cả một lần được xem lại bộ phim quay chính mình, do mình diễn "trước khi con mắt còn lại cũng mù", ông cũng chỉ biết chờ, chờ mãi trong vô vọng...

Tôi không biết giữa thời bình, một nông dân bỏ 20 năm đằng đẵng để tháo 10.000 quả mìn thì có đáng, có đủ để gọi họ là anh hùng được hay không. Nhưng tôi có thể hình dung rất rõ hậu quả tàn khốc nếu những quả mìn ấy vẫn nằm lẫn trong đất và phát nổ... Vì vậy, một điều gì đó tốt lành dành cho ông già can đảm và đau khổ ấy là điều rất xứng đáng để nghĩ tới, để thực hiện, dẫu đã là quá muộn. Không lẽ, những cuộc đời trên vùng gió cát cứ bị lãng quên mãi như loài muống biển, thủy chung bám chặt vào cát bỏng giữ đất chỉ để đợi một ngày bị gió sắt seo cuốn vào xơ xác?

Có thể bạn quan tâm