Chúng tôi tìm về làng nghề Kiêu Kỵ vào một ngày đầu Xuân năm Mậu Tuất (2018) để được tận mắt nhìn, tận tay sờ vào những tác phẩm được làm ra bằng đôi bàn tay tài ba các nghệ nhân Kiêu Kỵ; lắng nghe câu chuyện cuộc đời gắn liền với những bước thăng trầm làng nghề của nghệ nhân Lê Bá Chung, người có công lớn trong việc khôi phục, gìn giữ và phát triển nghề dát vàng quỳ truyền thống.
Duyên nợ với nghề vàng quỳ truyền thống
“Phá giặc uy linh lừng đất Bắc.
Dát vàng tinh xảo nức trời Nam”.
Hai câu thơ nói về làng nghề dát vàng Kiêu Kỵ, làng nghề duy nhất ở Việt Nam chuyên làm về dát vàng quỳ. Kiêu Kỵ thuộc đất Đông Ngàn, Kinh Bắc xưa nay thuộc xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. “Ông tổ của nghề dát vàng Kiêu Kỵ là Nguyễn Quý Trị, một tiến sĩ dưới đời vua Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786). Ông sinh ra và lớn lên ở làng Hội Xuyên, xã Liễu Trai (thuộc tỉnh Hải Dương). Năm 1763, khi đang giữ chức Binh Bộ Tả Thị Lang – Hàn lâm Viện trực học sĩ, ông được vua cử đi sứ sang Trung Quốc. Ở đó, ông đã học được nghề làm vàng bạc để sơn thếp lên hoành phi, câu đối… Sau khi về nước, ông đã truyền nghề lại cho người dân trong làng. Kiêu Kỵ có vị trí khá gần với kinh thành Thăng Long, rất tiện lợi cho việc thi công các công trình sơn son thếp vàng ở đền điện, đình chùa… của vua chúa đất kinh đô” - Vừa rót chén trà xanh tỏa hương thơm mát mời khách, nghệ nhân Lê Bá Chung vừa hồi tưởng lại lịch sử làng nghề quê mình.
Ông Chung không giấu được niềm tự hào khi kể về quãng thời gian khó khăn nhất khi ông đã cùng các nghệ nhân trong làng trải qua và giữ nghề phát triển như hôm nay.
Năm 1981, sau khi rời quân ngũ trở về quê hương, với “mác” bộ đội, ông Chung được các nghệ nhân trong làng ưu ái cho gia nhập vào đội dán quỳ ở làng, ông bén duyên với nghề vàng quỳ kể từ đó. Nhưng cùng với những đổi thay của đời sống, nghề làm vàng quỳ ngày càng mai một. Phần lớn dân trong làng chuyển sang làm nghề sản xuất đồ dùng bằng da và giả da. “Khó khăn nhất là những năm 1987-1990, trong làng chỉ còn lại vài ba nhà còn làm nghề vàng quỳ, các sản phẩm vàng quỳ cũng khó bán hơn” - giọng ông Chung chùng xuống.
Ông nói tiếp: “Không tiêu thụ được sản phẩm đồng nghĩa với việc không có thu nhập. Nhìn các nghệ nhân gạo cội trong làng không có việc làm, chỉ trông chờ vào một vài đơn hàng được chăng hay chớ mà thấy xót xa. Tôi quyết định rong ruổi khắp nơi, từ làng nghề làm đồ sơn mài Cát Đằng ở xã Yên Tiến (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), làng gỗ Hải Minh (Hải Hậu, Nam Định), làng nghề tạc tượng Bảo Hà (Hải Phòng)… để mời chào bán quỳ. Thời đó, phương tiện đi lại chưa thuận lợi như bây giờ. Mỗi chuyến đi Nam Định hay Hải Phòng phải mất mấy ngày. Khó khăn, nhưng chỉ cần nghe thấy nơi nào có nhu cầu mua vàng quỳ là tôi lập tức lên đường”.
Làm nghề dát vàng quỳ đòi hỏi người thợ phải có cái tâm, kiên trì mới có thể thành công.
Lặng im giây lát, khuôn mặt ông Chung giãn ra, ông hào hứng kể: “Đúng là “trời không phụ lòng người”. Năm 1993, làng nghề hồi sinh trở lại, nhu cầu sử dụng vàng quỳ ở các tỉnh dần dần tăng. Thay vì việc tôi phải đi khắp nơi “chào hàng” thì khách hàng đã chủ động tìm về Kiêu Kỵ. Nhiều người trong làng vì thế mà trở lại làm nghề. Sau một thời gian trầm lắng, những âm vang đập quỳ rộn rã trở lại. Không chỉ ở Kiêu Kỵ mà nhiều người dân làng bên cạnh thấy nghề này cho thu nhập khá nên đã tìm đến để xin học nghề”.
Để nhiều người có cơ hội học được nghề hơn, ông Chung đã mày mò nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, giảm giá thành sản phẩm, thay nguyên liệu phụ trợ, máy móc hỗ trợ để giảm công đoạn sản xuất quỳ, từ hơn 40 công đoạn nay còn hơn 20 công đoạn.
Tuy nhiên, đến năm 1995, sau một thời gian phát triển rầm rộ, nghề vàng quỳ Kiêu Kỵ lại đứng trước một “biến cố” khác, đó là khủng hoảng thừa. Sản phẩm làm ra không tiêu thụ được vì cung vượt quá cầu. Một lần nữa ông Chung lại lặn lội đi khắp các làng nghề sơn son thếp vàng để tìm hướng tiêu thụ sản phẩm.
“Cũng may mắn nhờ chịu khó đi, chịu khó quan sát học hỏi mà tôi học được thêm nhiều kinh nghiệm làm nghề như làm sơn ta truyền thống, sơn son thếp vàng của các nghệ nhân kỳ cựu để phát triển nghề dát vàng, bạc quỳ Kiêu Kỵ sau này”, ông Chung tâm sự.
Đau đáu tâm nguyện bảo tồn và phát triển làng nghề
Gần nửa đời người gắn bó với nghề vàng quỳ truyền thống, ông Chung luôn đau đáu tâm nguyện muốn đưa các sản phẩm làng nghề tiến xa hơn, đi đến những công đoạn cuối cùng để làm nên các sản phẩn sơn son thếp vàng. Đem nỗi lòng tâm sự với Đại đức Thích Thanh Phương (chùa Tự Khoát, Thanh Trì, Hà Nội), với cụ Cả Đăng, cụ Cả Dị (là những nghệ nhân giàu kinh nghiệm của làng nghề), được các cụ động viên khuyến khích; sau nhiều thăng trầm, năm 2003, ông Chung cùng con trai quyết tâm thực hiện tâm huyết đó.
Niềm vui lớn nhất của ông Chung đó là làng nghề dát vàng Kiêu Kỵ ngày càng phát triển mang lại cuộc sống ấm no cho mọi người trong làng.
Tác phẩm đầu tay của cha con ông Chung là pho tượng Di Lặc. Nhưng bấy giờ do chủ quan và làm vội để kịp mang đi triển lãm nên cha con ông không kịp nghiên cứu kỹ. Báo hại là khi đưa ra hội chợ thì pho tượng gỗ vì thời tiết hanh hao mà bong tróc hết toàn bộ phần vàng dát bên ngoài.
Sau đó còn rất nhiều lần thất bại, mỗi lần không thành công ông Chung lại mày mò nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục. Ông say sưa: “Khi sử dụng sơn ta để sơn lên các sản phẩm thì cái khó nhất là phải giữ được độ ẩm cho môi trường chung quanh tránh việc sơn bị bong”. Ông Chung đã nghĩ ra cách dùng ni-long trùm kín, sau đó dùng nước đun sôi đổ xuống chân tượng để hơi nước bốc lên đọng lại trong túi ni-long sao cho lượng nước vừa đủ giúp cho sơn nhanh khô và bám chặt vào sản phẩm.
“Làm quỳ đã khó, dát quỳ lên tượng lại càng khó hơn, việc đó đòi hỏi người thợ phải có cái tâm, phải kiên trì, nhẫn nại nếu không sẽ rất khó thành công”, ông Chung nói.
Khi đã khá vững vàng trong nghề sơn son thếp vàng, ông Chung lại mong muốn đem nghề mình học được truyền lại cho các thế hệ sau, mong ước ấy của ông được thực hiện vào năm 2008. Được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, ông bắt đầu mở lớp để đào tạo nghề cho thanh niên trong làng và người lao động ở các khu vực lân cận.
“Năm đầu tiên mở lớp, vì muốn thợ học nghề được cọ xát với thực tế nên tôi để cho họ thực hành luôn trên các sản phẩm khách hàng đặt. Thợ làm hỏng tôi lại phải bỏ tiền túi ra để làm sản phẩm khác đền cho khách. Cũng may lớp thợ ấy ra nghề đều trở thành những thợ giỏi nên tôi cũng cảm thấy vui”, ông Chung hãnh diện nói.
Nhớ về buổi đầu làm thầy, đôi mắt ông Chung bỗng phảng phất nỗi buồn, ông tâm sự: “Miệng lưỡi thế gian nhiều khi cũng bạc lắm, thời kỳ đầu mở lớp cũng nhiều người “xì xào” nói tôi thế này thế khác, rồi học trò cũng có những người sau khi học thành nghề thì quay ra nói xấu thầy. Những lúc như thế tôi cũng cảm thấy rất buồn nhưng rồi lại tự an ủi, mình làm vì cái tâm trong sáng thì tổ nghề sẽ chứng giám cho mình”.
Có lẽ cũng vì chữ “tâm” ấy mà không ít lần ông khảng khái từ chối đơn hàng yêu cầu phục dựng những đồ vật có giá trị lịch sử và văn hóa để giữ lại những giá trị nguyên bản của nó. Một nguyên tắc nữa mà ông Chung đặt ra cho bản thân và các học trò của mình là luôn luôn phải giữ chữ tín trong nghề. Đối với các sản phẩm không may bị lỗi ông đều nhận làm lại cho khách. Mỗi sản phẩm hoàn thiện trước khi bàn giao ông cẩn thận hướng dẫn khách hàng cách vệ sinh và bảo quản để sản phẩm giữ được độ bền đẹp trong thời gian lâu nhất.
Sau 37 năm gắn bó với nghề và sau 14 năm làm nghề sơn thếp vàng, đến nay, tiếng tăm của nghệ nhân Lê Bá Chung đã vang khắp trong nam ngoài bắc. Nhưng có lẽ điều mà khiến ông Chung cảm thấy vui và hãnh diện nhất đó là nghề dát vàng Kiêu Kỵ ngày càng phát triển và mang lại cuộc sống no đủ cho những các nghệ nhân làng nghề hôm nay và các thế hệ mai sau.
Viết tiếp những giấc mơ
Dẫn chúng tôi đi tham quan trong khuôn viên nhà Tràng (nhà thờ tổ nghề dát vàng Kiêu Kỵ), nơi những người thợ Kiêu Kỵ đang miệt mài hoàn thiện những đơn hàng cuối cùng trước khi nghỉ Tết, chỉ vào một thanh niên còn khá trẻ ông Chung khoe: “Bọn trẻ bây giờ giỏi lắm, chúng làm nghề còn nhanh và đẹp hơn cả chúng tôi ngày xưa. Nhìn cháu này trẻ thế này thôi nhưng cũng có sáu năm trong nghề rồi, cũng là một thợ cứng trong xưởng con trai thứ của tôi đấy”.
Một lớp trẻ kế cận đang viết tiếp những trang sách mới về làng nghề mà lớp cha ông đi trước như ông Chung đã dành cả cuộc đời để gìn giữ.
Ông Chung cho biết mình có hai người con trai, cả hai đều đang nối nghiệp cha viết tiếp những trang sách mới về tương lai cho nghề dát vàng Kiêu Kỵ. Ánh mắt ông sáng bừng khi ngắm nhìn thế một hệ trẻ đang tỉ mẩn, trau chuốt từng chút một để tạo ra các sản phẩm tinh xảo nhất. Một thế hệ trẻ kế nghiệp cha ông, đây có lẽ là món quà tinh thần, là trái ngọt mà một nghệ nhân với 37 năm gắn bó với nghề nhận được.
Khi chúng tôi hỏi ông về tương lai của làng nghề dát vàng Kiêu Kỵ, không chần chừ suy nghĩ, ông Chung nhận định: “Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu đối với các sản phẩm vừa mang tính tâm linh, vừa mang tính thẩm mỹ như dát vàng quỳ sẽ ngày càng lớn, thế hệ trẻ đến xin học ngày càng nhiều. Nghề này sẽ ngày càng phát triển hơn nữa”.
“Được sự ủng hộ của chính quyền địa phương, cùng với nguồn vốn xã hội hóa, dự kiến, năm 2018 này, khu nhà Tràng sẽ được xây dựng mới, khang trang hơn, đây là nơi giúp đào tạo ra nhiều thế hệ trẻ kế tục nghề truyền thống. Tôi tin, làng nghề Kiêu Kỵ sẽ ngày càng hưng thịnh và phồn vinh”, ông Chung bày tỏ.
Với nhiều đóng góp quan trọng vào việc giữ gìn bảo tồn và phát huy được giá trị của làng nghề truyền thống Kiêu Kỵ, năm 2004, ông Lê Bá Chung là một trong số những người làm nghề truyền thống đầu tiên được UBND TP Hà Nội xét phong tặng danh hiệu nghệ nhân. Năm 2016, ông được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú. Mới đây, năm 2017 ông được tặng danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú”.
Ông Chung giới thiệu cho khách bức tranh tổng thể của làng nghề Kiêu Kỵ sau khi dự án được thực hiện.
Hằng năm, cứ vào 17-8 Âm lịch, người dân trong làng làm lễ giỗ Tổ nghề để tưởng nhớ tới công ơn của ông Nguyễn Quý Trị - Tổ sư nghề quỳ vàng bạc. Ngoài ra, vào ngày 12 tháng Giêng, các gia đình theo nghề quỳ vàng bạc làm lễ xôi gà đem đến cúng Tổ nghề tại điện thờ trong nhà Tràng. Sau đó về nhà làm nghi thức “khai tràng” (tức là lễ khai búa đập quỳ). Kể từ ngày này đến Tết sang năm tiếng đập quỳ lại vang lên đều đặn trong các gia đình. |