Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngư Thủy Nam - Trần Văn Sở là người quen của tôi bấy lâu nay, vì chúng tôi đều là người làng biển với nhau. Do nhà tôi cách nhà anh đến gần chục cây số đường cát, nên gần mà cũng như xa. Hôm gặp ở cơ quan tôi, anh bảo: "Về Ngư Thủy Nam đi, bữa ni đường dễ lắm, không như ngày xưa mô. Ðời sống của ngư dân cũng tương đối, nhiều cái hay, nhiều cái viết được đó nghe chú!".
Con đường "Hồ Chí Minh ven biển" - cách gọi thân quen của người dân làng biển khi Nhà nước cho đầu tư làm cấp phối nối liền ba xã biển bãi ngang của huyện Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình) là Ngư Thủy Bắc, Ngư Thủy Trung và Ngư Thủy Nam dài hơn 30 ki-lô-mét, rộng hơn 5 mét. Ngoài ra, tại trung tâm của các xã có những tuyến đường nối với con đường huyết mạch bắc - nam là quốc lộ 1A, tạo thành những ô bàn cờ vuông vức hoàn chỉnh gói gọn lấy những ngôi làng cát nghèo ven biển.
Những con đường đã đáp ứng được lòng mong mỏi của người dân bao đời nơi đây khỏi phải "lùi trên cát". Ngư dân được đi xe đạp, khá hơn được ngồi xe nổ, tay kéo ga, tay ấn còi inh ỏi kéo theo sau những bụi là bụi, đỏ mù trời. Thanh niên trai tráng trong làng muốn cho bằng bạn, bằng bè kéo nhau vào nam làm ăn, tiết kiệm một ít về xây nhà, xây cửa, mua sắm vật dụng gia đình...
Vì là người làng biển, nên tôi nhớ ngày xưa, người quê tôi khổ lắm. Cuộc sống người dân khổ đúng với nhiều nghĩa của từ này. Ðất cát quanh năm chỉ biết trồng khoai lang, sắn dại, chứ không thể có nổi bóng cây lúa, mỗi một mùa qua đi, nhà nào đông người cũng có thể thái lát phơi khô được mươi mười lăm thúng, dùng để độn cùng cơm ăn suốt năm. Ðể có được gạo ăn hằng ngày là cả một sự vật lộn cực nhọc với biển.
Cha trước, con sau, trai tráng trong nhà chỉ biết đi biển. Mỗi ngày ra biển đánh bắt được bao nhiêu gánh vào chợ quê ở các xã vùng "kẻ ruộng" để bán đong gạo. Mà cái sự bán sản phẩm làm ra của người làng biển ngày xưa cũng đến là tội nghiệp.
Cá, mực vừa đánh bắt được tươi roi rói, vợ chồng, cha con mừng vui vì trúng được mẻ cá ngon. Vợ tất tả gánh cá lội hàng chục ki-lô-mét đường cát đến chợ. Giữa trưa, cát nóng như rang, gió Lào thổi mạnh từng cơn như đẩy lùi người phụ nữ làng biển nhỏ bé liêu xiêu trong nắng trở ngược về phía sau, nhưng phía sau họ là cả một cuộc sống, là cả một sự chờ đợi của bao người trong gia đình đang mong ngóng bữa chợ của mình, thế là những người phụ nữ ấy lại phải tiếp tục dấn bước, mặc cho mồ hôi cứ vã ra, gió Lào khô khốc, cát bay mù trời phả vào mặt, vào người bỏng rát. Những con cá tươi, ngon, bắt mắt đến vậy nhưng khi vào chợ đã trở thành cá ươn... Người làng biển xưa cứ xoay vần theo cái vòng luẩn quẩn ấy, nghèo đói, thiếu thốn đủ bề.
Anh Sở nói với một sự trăn trở của người đứng đầu một tập thể chiếm số đông trong xã, làm cho tôi quay về với thực tại. Ðường giao thông cấp phối được đầu tư xây dựng nối các làng biển với thế giới bên ngoài mà bấy lâu nay bị cô lập bởi những ốc đảo cát.
Ðường nối làng, nối xã, nối nhà với nhà, đường sỏi vào tận ngõ, tận sân của mỗi hộ gia đình. Người trong làng có việc gì khi muốn có thể ngồi trên xe nổ máy, vù ga cứ thế phóng đi.
Ðường điện chiếu sáng của quốc gia đã được kéo vắt ngang qua động cát, triền cát. Những cột trụ bê-tông vững chãi hiên ngang trên cát, đưa ánh sáng hiện đại về với dân nghèo vùng cát. Trường học cho trẻ em nghèo trước được xây dựng cấp bốn, sau được nâng lên kiên cố hai tầng, rộng rãi, khang trang và tiện lợi. Trạm y tế đã có bác sĩ, hoạt động từng bước được chuẩn hóa.
Ðặc biệt ba xã nghèo của biển bãi ngang ở huyện Lệ Thủy này đã được đầu tư xây dựng một chợ trung tâm đặt tại địa bàn xã Ngư Thủy Nam.
Ngư dân đánh cá vào không còn lo nơi tiêu thụ. Xe đông lạnh, tư thương, lái buôn về tận chân sóng mua cá mang đi, được giá, được tiền. Chợ quê nhưng đầy đủ các loại mặt hàng nhu yếu phẩm hằng ngày của đời sống ngư dân làng biển. Xe tải bịt bùng chở đầy bia Sài Gòn về tận các quán xá bỏ hàng. Ngư lưới cụ, thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được chở đầy về các quán...
Ðời sống của ngư dân làng biển bãi ngang đã thay đổi hoàn toàn. Tỷ lệ hộ đói nghèo khoảng 5 năm về trước chiếm tới hơn nửa, nay chỉ còn chưa tới 20% (theo chuẩn cũ), dù cao nhưng đó là một kỳ tích trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo của người dân làng biển.
Tuy vậy, ông Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngư Thủy Nam vẫn bày tỏ cái khó khăn hiện tại của địa phương mình, đó chính là việc làm thường xuyên cho số ngư dân trong độ tuổi lao động, đặc biệt là thanh niên nam nữ. Việc làm thiếu, khó có thể thu hút được lực lượng hùng hậu này ở lại quê nhà. Biển một ngày một kiệt, đánh bắt thủ công của đặc thù vùng bãi ngang một ngày một khó để có được con cá, con mực.
Nghề biển quanh năm quăng quật với sóng to, gió lớn, trời yên biển lặng cũng chỉ... đủ ăn, không có cơ hội để làm giàu. Muốn làm giàu, thôi thì phải cho con đi đâu đó học cái hay của người ta về mà áp dụng vào mình, vận vào mình. Nhưng xem ra, cuộc sống ngoài kia sao mà lắm cám dỗ!
Sau Tết Nguyên đán, có vài ba chuyến xe tốc hành với sức chứa năm sáu chục người ngồi về tận làng, vào tận ngõ để chở lao động vào "vùng đất hứa" - miền nam. Thanh niên đi ra kia, không lo học, mà học làm sao được, "ở trỏng" chỉ biết đánh bắt xa bờ, tàu to, lưới lớn, còn mình về quê thì vốn đâu mà làm được; "ở trỏng" toàn khu công nghiệp, toàn nhà máy, công xưởng sản xuất ra toàn đồ xuất khẩu, còn mình về quê thì vốn đâu mà làm được, thôi thì chỉ lo kiếm tiền, dành dụm - thế cũng tốt - cuối năm về tậu xe nổ, để tay kéo ga...
Bôn ba hồi cũng chán, một số thanh niên trai tráng cũng về quê để mưu sinh, quyết tâm nuôi chí làm giàu trên quê hương mình. Coi như là những chuyến ra đi trước kia để cho biết đó, biết đây. Họ lại phải bước lên vạch xuất phát từ đầu. Lại phải bám biển, lại phải quăng quật, đối đầu với sóng biển bãi ngang, ra biển thì nhiều, sản phẩm thì ít. Thôi thì nghe lấy mấy ông cán bộ, cứ kết hợp riết cái mô hình ngư - nông - lâm và dịch vụ làm sao cho nhuần nhuyễn, ắt phải có của ăn của để chứ chẳng chơi.
Nhiều bà, nhiều chị, nắm bắt được thị hiếu của người dân xa trung tâm, xa chợ búa vay vốn đầu tư cho việc sản xuất, kinh doanh. Mở hàng bán gạo - thứ mà người dân làng biển lúc nào cũng cần, để đến nỗi trai tráng đi biển về khi gặp người nào có hỏi, hôm nay ra biển có đánh được bao nhiêu, thì người ta sẽ trả lời rằng ít thì "cũng được năm ba lon gạo", nhiều thì chỉ cần vắn tắt "vài ba chục gạo"... đó là cách nói giấu của người đi biển, kẻo nói ra chính xác số sản phẩm của mình đánh bắt được thì sợ ngày mai, ngày kia, biển sẽ không cho nữa...
Các chị bán gạo theo mùa. Mùa cá nam, các chị đi thu tiền gạo đã ứng trong năm. Các mùa khác không cần biết nhà giàu hay nghèo, ai thiếu gạo cứ đến ứng về dùng, miễn sao đến mùa cá nam "thanh toán" sòng phẳng là được, để đông giá đến, biển động, trai tráng không ra biển được, không có nguồn thu còn có cơ sở đến để ứng tiếp.
Chị Ngô Thị Thúy Phường ở thôn Liêm Tiến của xã Ngư Thủy Nam là một điển hình về sản xuất kinh doanh. Chị là người được dân làng biển ví như bà đỡ của dân nghèo nơi đây. Báo đài về đưa tin, chụp ảnh để tuyên truyền cho chuyên mục "người tốt, việc tốt" thường xuyên...
Người làng biển có cái khổ riêng, biển giả theo năm, theo mùa. Năm được mùa thì nợ nần trả hết, năm mất mùa cứ thế nợ cộng dồn vào, bám biển hoài mà nợ nần không trả được thì phải tìm cái việc khác mà làm để tìm thêm nguồn thu trả nợ. Nhiều mô hình kinh tế theo kiểu trang trại nhỏ và vừa hộ gia đình đã ra đời.
Toàn xã Ngư Thủy Nam chỉ vẻn vẹn có mấy trăm hộ nhưng đã có hàng chục mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả, thu lãi hàng năm từ 30 đến 50 triệu đồng. Các phế phẩm từ biển, từ đánh bắt được các chị chế biến thành thức ăn cho lợn, cho gà.
Nhiều hộ gia đình đầu tư cả chục triệu đồng để xây dựng khu chuồng trại chăn nuôi theo dạng công nghiệp để thả lợn thịt đàn với hàng chục thậm chí hàng trăm con. Thả hàng nghìn con gà để tăng thêm thu nhập. Cứ đến khi lợn, gà lớn đủ để bán, cầm cái "a lô" lên là tư thương về tận ngõ cân đo đong đếm và trả tiền mang đi. Ngư dân lại tiếp tục đầu tư cho vụ nuôi mới.
Chính từ cách làm này đã có hộ từ chỗ nghèo khó nay vươn lên khá giả, nhiều hộ đã trở thành "nhà giàu" của người làng biển.
Người phụ nữ được dân nghèo làng biển trước đây ví là "bà đỡ" Ngô Thị Thúy Phường là một người có cái nhìn khá chiến lược và bao quát về sự phát triển kinh tế của địa phương. Chị trước đây nguyên là chiến sĩ của Ðại đội Nữ pháo binh Ngư Thủy Anh hùng, đã được cố Ðạo diễn Lê Mạnh Thích - Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương đưa vào ống kính của mình từ hồi những năm 70 của thế kỷ trước bằng những hình ảnh quả cảm, anh hùng với tiêu đề "Những cô gái Ngư Thủy" gây được tiếng vang lớn trong làng điện ảnh tài liệu trong nước và quốc tế.
Tiếp sau đó gần 30 năm, tức là cách đây hơn bảy năm, đạo diễn trở về với các chị, trở về với Ngư Thủy cùng bộ phim Trở về Ngư Thủy, lần nữa đã làm cho cả nước chú ý đến cuộc sống cơ cực của các chị sau chiến tranh, với cuộc sống nghèo khó của dân làng biển và lần này bộ phim của đạo diễn cũng đã mang lại thành công trong các kỳ liên hoan...
Sở dĩ tôi phải dông dài như vậy về việc chị Phường lên phim, lên ảnh không phải là vì thành tích chiến đấu, mà tôi muốn dẫn dắt mọi người đến một khía cạnh mới.
Chính trong cuộc sống hôm nay, Phường đã làm được bao nhiêu việc cho người làng biển. Ði đầu trong sản xuất kinh doanh, mở điểm chế biến thủy hải sản xuất khẩu tại nhà để giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục chị em phụ nữ ở quê. Khi việc chế biến thủy hải sản xuất khẩu "hết thời" vì cách làm thủ công, chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, chị chuyển sang kinh doanh các mặt hàng đáp ứng nhu cầu đời sống của người dân địa phương.
Chưa hết, chị đi đến từng nhà, vận động từng người nên chuyển đổi hình thức canh tác truyền thống bấy lâu nay của ngư dân. Giảm bớt diện tích trồng khoai, sắn năng suất thấp sang trồng lạc trên cát, mang lại thu nhập cao gấp mấy lần so với trước đây, được phụ nữ nghèo nơi đây hưởng ứng khá tích cực và đã thật sự là chìa khóa mới trong việc kết hợp ngư - nông - lâm và kinh doanh dịch vụ...
Phường đang có dự định và dự định ấy của Phường mới tiết lộ cho tôi biết, đó là xây dựng cho được thương hiệu nước mắm Thành Ðạt - Ngư Thủy Nam. Hiện nay Phường đang là người đứng đầu 5 tổ chế biến nước mắm của xã Ngư Thủy Nam được đặt tại 5 thôn với số lượng lên tới hàng chục bể chứa, hàng chục chiếc chum lớn để đựng cá, đựng mắm thu hút gần trăm lao động nữ tham gia.
Chị kể, năm ngoái là vụ chế biến đầu tiên của các tổ, nhưng vì làm thí điểm nên chỉ mua có 5 tấn cá, sau đó bán lãi được gần 20 triệu đồng. Riêng trong vụ cá nam trong năm đã mua được 23 tấn cá để chế biến, hiện tại lượng nước mắm này đang giai đoạn tích đạm nên chưa xuất bán ra thị trường, vì chị và mọi người muốn làm đúng như quy trình khoa học đã được tham gia tập huấn tại các lớp chuyển giao của các dự án.
Chưa hết, Phường đã hỏi thủ tục để đăng ký thương hiệu cho nước mắm của chị em mình, họ bảo phải đưa mẫu nước mắm ra Hà Nội để được thẩm định chất lượng và Phường sẽ làm trong nay mai...
Ba người đàn ông đen trùi trũi, vai u thịt bắp, ngực nổi cuồn cuộn những thớ thịt săn chắc, đang xoay trần trên mấy tấm gỗ dài khá lớn. Người ngoài nhìn vào có thể không biết, song vì người làng biển nên tôi biết công việc của họ đang làm. Họ đang vào ben cho chiếc bơ mới - loại thuyền nhỏ dùng để đánh cá ở biển bãi ngang, có thể khiêng lên bờ sau lần đi biển và khiêng về khi ra khơi, vì biển bãi ngang không có chỗ trú ẩn, neo đậu cho tàu thuyền.
Không khó khăn lắm khi bắt chuyện bởi giọng nói và những câu hỏi có vẻ đúng với "chuyên môn" của người đóng bơ nên họ vui vẻ tiết lộ. Nghề làm bơ nan này của ngư dân Ngư Thủy Nam đã có từ lâu, nhưng từ chỗ thô sơ sau dần được nâng lên thành kỹ năng, kỹ xảo. Nhiều nơi thấy mẫu mã của bơ nan Ngư Thủy Nam làm ra đẹp, bền, chắc chắn, tiếng lành cứ thế đồn xa.
Người thợ của Ngư Thủy Nam không chỉ làm để cung cấp cho ngư dân địa phương nữa mà các xã bên cạnh, rồi các xã bãi ngang của các huyện khác như Hải Ninh (Quảng Ninh), Quang Phú (Ðồng Hới), Vĩnh Thái (Vĩnh Linh - Quảng Trị)... cũng tìm đến đặt mua.
Người đóng bơ chuyên nghiệp ở đây mỗi năm cũng làm được từ 10 đến 15 chiếc mỗi năm, trung bình mỗi chiếc làm ra khi đến tay người tiêu dùng có giá từ 6 đến 8 triệu đồng, trừ mọi chi phí, người thợ cũng có thể thu lãi được từ 1,7 đến 2 triệu đồng, trong vòng trên dưới 10 ngày công. Quả là một nguồn thu lý tưởng chỉ có được với những người thợ khéo tay, siêng năng và chịu khó...
Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngư Thủy Nam muốn được thành lập tổ hợp tác, gom những người thợ giỏi lại vào một nhóm để hoạt động này được đi vào quy củ, thường xuyên, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, tạo ra được một môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh...
Lân la hoài, qua chỗ nào cũng được mời rượu trắng, sức tôi uống vào mấy ly nghe choáng váng. Tuy thế nhưng cũng khó từ chối được, bởi người làng biển quê tôi thật quá, thật đến ngờ nghệch, thôi thế say một bữa với cát, với gió, với sóng quê mình - tôi nghĩ vậy cứ uống, chẳng sao.
Cát thì trắng đến mê mải, gió lào thì khắc khoải từng đêm, sóng biển của chiều chạng vạng cứ mơn man mát rười rượi. Với biển tôi như tìm lại được chính mình...