Khi Nam Bộ bước vào kháng chiến, sự kiên định của lãnh đạo, của cấp chỉ huy tại chỗ có ý nghĩa sống còn đối với đội quân cách mạng còn non trẻ. Vệ quốc đoàn, dân quân du kích Nam Bộ trụ được nhiều tháng sau ngày 23-9-1945 trước đội quân xâm lược nhà nghề của Pháp là một kỳ tích, mà đồng chí Lê Duẩn so sánh một cách hình ảnh: “Nam Bộ đã đưa ngực đỡ tàu chiến”. Chính cái khí phách ấy đã cùng cả nước bước vào Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, mà Trung ương Đảng, Bác Hồ biết là khó tránh khỏi.
Đồng chí Nguyễn Trọng Xuất, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên huấn Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, nhớ lại: Nam Bộ kháng chiến nổ ra trước ngày Toàn quốc kháng chiến gần 15 tháng: từ 23-9-1945 đến 19-12-1946. Lúc đó, tôi đang là đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong và nhớ rất rõ tiếng súng gây hấn của Pháp ngày 23-9-1945 tại Sài Gòn như mồi lửa châm vào chảo dầu sôi. Giữa bối cảnh đó, ai cũng tưởng phát động kháng chiến, đánh trả ngay tức khắc bọn xâm lược Pháp là chuyện đương nhiên.
Thế nhưng, vẫn có ý kiến khác: “Phải chờ lệnh Trung ương”. Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ quyết định: Vừa kháng chiến ngay tức khắc, vừa báo cáo Trung ương. Ngày ấy, chúng tôi xung phong ra đánh giặc ngay, nhưng thầy giáo không cho. Thầy bảo: Các trò còn trẻ, cơ hội cứu nước còn lâu dài và rất nhiều. Thế nhưng sau khi bị từ chối, chúng tôi tham gia ngay vào Hội Học sinh cứu quốc rồi sau đó thật sự trở thành người kháng chiến...
Nam Bộ đã bắt đầu kháng chiến như lẽ tự nhiên của cậu học trò, anh công nhân, người giáo viên hay hầu hết người yêu nước. Cuộc giằng co cực kỳ ác liệt đã làm kẻ địch bất ngờ, kinh hoàng: một thành phố không điện, không nước, không lương thực; cái chết rình rập trên mỗi bước đi của quân xâm lược. Sau đó, ngay khi đại quân của đội quân xâm lược Pháp đổ bộ, quân dân Nam Bộ, mà chủ lực là nông dân, công nhân, vẫn cầm chân chúng trong chu vi của 21 tỉnh lỵ, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của đội quân viễn chinh nhà nghề.
Đặc biệt, Nam Bộ khẳng định lòng trung thành và niềm tin tuyệt đối với Tổ quốc Việt Nam, với “Chính phủ và Cụ Hồ”. Và, khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thôi thúc Nam Bộ đi suốt chặng đường kháng chiến trường kỳ. Nam Bộ đã “đi trước” trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, cầm chân Pháp trong thời gian 15 tháng vô cùng quý giá để cả nước chuẩn bị cho Toàn quốc kháng chiến. Nam Bộ vừa có vinh dự là “Thành đồng Tổ quốc”, vừa là nơi hun đúc, rèn luyện các thế hệ trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mỹ, đi đến thắng lợi sau cùng.
Khônh quên được tinh thần quả cảm, xung kích, sáng tạo của các đồng đội, của lực lượng công an thành phố góp phần làm nên chiến công vang dội của Ngày Toàn quốc kháng chiến, đồng chí Nguyễn Tấn Tài, nguyên Chánh Văn phòng Công an TP Hồ Chí Minh tự hào kể: Đoán trước cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp sắp lan rộng ra cả nước, ngày 5-11-1946, Bác Hồ chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ”, xác định rõ công việc cấp bách là “làm khí giới”. Khi ấy, chiến trường Nam Bộ ở xa, địch phong tỏa đường biển và đường bộ. Vì vậy, lực lượng công an đã dùng vỏ đạn cũ, làm hạt nổ, đúc đồng chế tạo vũ khí. Thiết bị ban đầu chỉ có một máy tiện, hai đe con nhím, một số ê-tô, một bàn ép, một bàn cán đồng với 35 nhân viên. Thời gian đầu xưởng chỉ làm nhiệm vụ sửa chữa súng, nạp thuốc đầu đạn và nhồi thuốc nổ vào. Từ việc làm lại đạn cũ, với những phương tiện thô sơ gồm một máy tiện, một máy khoan tay và một lò rèn, lực lượng công an đã chế tạo được súng ngắn CA9. Những khẩu súng ngắn đầu tiên cung cấp ngay cho Công an Sài Gòn - Chợ Lớn đã khích lệ tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ trong công tác trừ gian, diệt địch. Khi Công an xưởng Gia Định được thành lập, mỗi tháng ta sản xuất được khoảng 500 đến 600 viên đạn súng trường, súng ngắn. Do thiếu nguyên liệu, họ kêu gọi và được nhân dân nhiệt tình hiến các loại vật dụng bằng đồng, có gia đình ủng hộ cả bộ lư hương…
Có vũ khí, công an được giao nhiệm vụ diệt tên Trương Hòa Thành, Bộ trưởng Thông tin - Truyền thông của Chính phủ Nam Kỳ tự trị. Được quần chúng hết lòng giúp đỡ, một tổ công an xông thẳng vào nhà riêng của tên này (cách Bót Phú Lâm 50 m), bắn chết hắn và rút lui an toàn. Năm 1947, Pháp đưa Nguyễn Văn Sâm làm Thủ tướng Nam Kỳ. Sâm đang làm Chủ tịch của tổ chức phản động Mặt trận Quốc gia liên hiệp và nguyên là Khâm sai đại thần của Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Ngăn chặn ý đồ của địch, công an được giao nhiệm vụ trừ khử tên Sâm. Tổ công an nghiên cứu quy luật hoạt động của y, lên phương án hành động cụ thể, đã bắn hạ y giữa chốn đông người và rút lui trong sự che chở của quần chúng. Nhưng nổi bật nhất là vụ trừng trị tên cò Ba-danh (Bazin), Giám đốc Sở Mật thám Nam Kỳ, là tên gây nhiều nợ máu nhất. Công an đã nghiên cứu kỹ, lên kế hoạch chặt chẽ, quyết tâm cao và hành động nhanh gọn, dũng cảm và đã bắn Ba-danh chết ngay giữa trung tâm Sài Gòn.
Kỳ tích ấy, khí phách ấy đã tạo nên sức mạnh toàn quân, toàn dân nô nức tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, trừ gian, diệt tề. Đồng chí Lê Hoài Vĩnh (CLB Truyền thống Kháng chiến huyện Nhà Bè), bồi hồi xúc động: Tại huyện Nhà Bè, sau ngày 19-12-1946, thanh niên tình nguyện tòng quân nhiều đến mức không thể nhận hết, buộс phải ra điều kiện “ai có vũ khí thì mới thu nhận”. Thế là bất cứ tàu nào của địch bị chìm, dù sông sâu đến mấy, người dân cũng lặn tìm cho được vũ khí. Trong buổi đầu, các lực lượng vũ trang ngoài hoạt động chính là tiêu diệt các đồn bốt địch, còn kết hợp diệt tề, trừ gian, địch vận để lấy vũ khí địch đánh địch.
Tháng 2-1947, Bộ đội Bình Xuyên vượt sông Nhà Bè, luồn về diệt tên hương quản Tài và tên Giáo Lầu tại ngã ba Chợ Tân Thuận Đông, là hai tên ác ôn có nhiều nợ máu với cách mạng. Cũng trong tháng, tại Cảng Tân Thuận, ta tổ chức hai nữ du kích đánh lạc hướng hai tên lính Pháp gác cổng để bộ đội từ dưới sông đột nhập lên lấy vũ khí, đạn dược của địch chuyển xuống ghe. Đợt này ta lấy nửa tấn đạn, gồm đạn tiểu liên, đạn súng máy và một phần lớn là đạn cối (mortar) cỡ 51 mm. Tháng 4-1947, tự vệ chiến đấu quân làng Phú Xuân đánh đồn Mương Chuối thu được bảy cây súng trường. Tháng 8-1947, ta lại phối hợp các đơn vị bộ đội chủ lực đánh đồn Mương Chuối lần nữa, thu được 10 súng các loại, 5 thùng đạn, lựu đạn.
Ở Long Thới Đông, các đội tự vệ chiến đấu quân ở các ấp được thành lập, có đại đội số đội viên lên tới 70 người. Hằng ngày, tại các trạm gác, các đội tự vệ chiến đấu quân phân công đội viên luân phiên canh gác. Nhờ những trạm gác này, bộ đội và cán bộ cách mạng từ vùng căn cứ Rừng Sác vượt sông về hoạt động dễ dàng, tránh được những tổn thất.
Tháng 8-1947, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ làng Nhơn Đức, hơn 200 nông dân tổ chức thành từng đoàn đi cắt đường dây điện thoại của địch từ Nhơn Đức đến cầu Mương Chuối. Làng Long Thới đã mở đầu cho phong trào phá hoại đường giao thông, ngăn chặn địch ở nhiều địa phương trong quận. Tháng 10-1947, ta tổ chức đánh đồn Phú Mỹ. Ta dùng kế nội ứng, bí mật đưa đồng chí Kiên vào làm lính trong đồn, sau một thời gian chuẩn bị, ta tổ chức đánh trúng vào phiên gác do đồng chí Kiên đảm nhiệm. Trận này ta diệt được 10 tên địch, trong đó có tên xếp Tỏ, Trưởng đồn, thu 17 súng các loại. Đồng chí Kiên đã anh dũng hy sinh trong trận này.
Bảy mươi năm trôi qua, nhưng những kỳ tích, khí phách Ngày Toàn quốc kháng chiến vẫn còn vang vọng mãi... Đây là bài học quý giá trong giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.