- Xin ông cho biết ý nghĩa của việc làm mưa nhân tạo?
- Vào thời kỳ khô hạn, chỉ cần một lượng nước mưa nhỏ cũng mang lại lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, nếu thực sự có được một công nghệ làm mưa nhân tạo sẽ tăng thêm lượng mưa phục vụ chống hạn, phòng, chống cháy rừng; tăng nguồn nước cho các hồ phục vụ cho phát triển kinh tế và sinh hoạt của dân, đồng thời khắc phục các vấn đề môi trường. Trong tương lai, cùng với sự gia tăng của dân số và sự ô nhiễm của các nguồn nước mặt, sự cạn kiệt của các nguồn nước ngầm, khai thác nguồn tài nguyên nước trong khí quyển lại càng có ý nghĩa quan trọng. Đối với ngành Khí tượng - Thủy văn nói riêng, nghiên cứu, thực hiện việc làm mưa nhân tạo sẽ giúp nâng cao năng lực của ngành trong một số lĩnh vực như: Công nghệ dự báo khí tượng thủy văn, công nghệ quan trắc mây và mưa.
- Vậy nước ta có thể làm mưa nhân tạo?
- Vào năm 1959, với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài Nha Khí tượng nước ta đã thử nghiệm làm mưa nhân tạo bằng cách dùng máy bay rải muối bột vào mây trong khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, được thực hiện ở tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Theo đánh giá của các chuyên gia, lượng mưa nhân tạo cực đại trong vùng thử nghiệm đạt từ 40mm tới 60mm. Việt Nam nghiên cứu làm mưa nhân tạo vào một thời điểm rất thuận lợi, khi những công nghệ hiệu quả để làm mưa nhân tạo đang được hoàn thiện. Bằng cách tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm nghiên cứu trên thế giới, nước ta sẽ tiết kiệm được thời gian và kinh phí nghiên cứu phục vụ làm mưa nhân tạo.
Nước ta hoàn toàn có khả năng làm mưa nhân tạo có hiệu quả, vì trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các hoạt động phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai. Các bộ, ngành liên quan đều sẵn sàng ủng hộ mọi điều kiện cần thiết cho việc nghiên cứu làm mưa nhân tạo.
- Ông có thể cho biết trong quá trình làm mưa nhân tạo, vấn đề gì có tính quyết định nhất ? Khi làm mưa nhân tạo sẽ gặp khó khăn gì ?
- Quá trình làm mưa nhân tạo, vấn đề có tính quyết định là phải hiểu rõ các đặc trưng vi vật lý của mây. Một số tính chất của mây như: Loại mây, dạng mây, sự phát triển của mây, độ cao chân mây, đỉnh mây, độ dầy mây, hàm lượng ẩm... sẽ được xác định thông qua hệ thống rađa và các thiết bị đo chuyên dụng. Từ đó, các chuyên gia sẽ quyết định khu vực nào có thể làm mưa nhân tạo.
| | |
Máy bay làm mưa nhân tạo.
Cái khó hiện nay là chúng ta chưa có một nghiên cứu bài bản về mây cũng như những thiết bị khoa học chuyên ngành. Trong khi đó, khả năng nhập 100% công nghệ là không thể, vì công nghệ làm mưa nhân tạo không thể mang một cách đơn giản từ vùng này đến áp dụng cho vùng khác, do điều kiện khí tượng thủy văn ở các vùng khác nhau. Vì vậy, để có thể xây dựng được một công nghệ làm mưa nhân tạo có hiệu quả cho Việt Nam, cần thực hiện nghiên cứu lý thuyết và thử nghiệm, trên cơ sở đó lựa chọn các công nghệ có hiệu quả nhất trên thế giới áp dụng vào điều kiện Việt Nam.
Tuy nhiên, bản chất của việc làm mưa nhân tạo là tác động tích cực lên mây để tăng lượng mưa, vì thế khi không có mây thì không thể làm mưa. Vào mùa khô hạn có ít mây, nên khả năng làm mưa nhân tạo để chống hạn là rất hạn chế. Nếu như được nghiên cứu kỹ, trong thời kỳ hạn hán, với những biến động của thời tiết như ảnh hưởng của không khí lạnh, sự hình thành của những cơn dông không cho mưa hoặc cho mưa ít, khi mây có đủ điều kiện tác động... mới có thể làm mưa hoặc tăng lượng mưa. Đặc biệt, nếu đang cháy rừng, không có mây, cũng không thể làm mưa nhân tạo. Muốn làm mưa nhân tạo để phục vụ chống hạn một cách hoàn chỉnh, cần xây dựng hệ thống hồ chứa để tích nước (vào đầu và cuối mùa mưa). Song, việc xây dựng hệ thống hồ chứa nằm ngoài khả năng của dự án làm mưa nhân tạo. Vì thế, không nên coi việc làm mưa nhân tạo như là một “cây đũa thần” để thay trời làm mưa, xóa sạch thiên tai, hạn hán và cháy rừng.
- Vậy đến bao giờ nước ta có thể làm được mưa nhân tạo, thưa ông?
- Lộ trình làm mưa nhân tạo mà Viện Khí tượng - Thủy văn đề ra được thực hiện như sau:
Giai đoạn 2004-2006: Nghiên cứu điều kiện và khả năng làm mưa nhân tạo; cơ sở khoa học của làm mưa nhân tạo và đề xuất công nghệ làm mưa nhân tạo thích hợp cho Việt Nam; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; xác định địa điểm và thời gian làm mưa nhân tạo; phương thức phối hợp giữa các cơ quan tham gia làm mưa nhân tạo; tìm đối tác nước ngoài để xúc tiến ký hợp đồng thử nghiệm làm mưa nhân tạo ở Việt Nam. Giai đoạn 2007-2009: Những hạt mưa nhân tạo thử nghiệm đầu tiên sẽ xuất hiện tại khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Công nghệ làm mưa nhân tạo cho vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ sẽ được hoàn thiện trong giai đoạn này. Giai đoạn từ 2010 trở đi: Làm mưa nhân tạo phục vụ các nhu cầu kinh tế xã hội tại khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ và mở rộng trên cả nước.
- Xin cảm ơn ông.