Trong hai năm sống ở TP Hồ Chí Minh, Christine Buckley, phóng viên của Nhà Magazine , đã trò chuyện với hàng trăm Việt Kiều từ khắp nơi trên thế giới. 10 người trong số đó, chủ yếu ở lứa tuổi 20-30, đồng ý trả lời phỏng vấn của cô về cuộc sống và công việc của họ ở Việt Nam.
| Laurence Nguyễn , 23 tuổi, phụ trách quan hệ khách hàng ở hãng luật Fraser, sinh ở Montreal, đã sống ở TP Hồ Chí Minh hơn một năm. Christine Van , 27 tuổi, sinh ở Huế, lớn lên ở Brooklyn, New York, Mỹ, sống ở TP Hồ Chí Minh từ năm 2004 và hiện làm tổng quản lý nhà hàng Hideway Cafe. Đào Xuân Lộc , 35 tuổi, chuyên gia quản lý phát triển phầm mềm, sinh ra và lớn lên ở Paris, đã sống ở TP Hồ Chí Minh hai năm. Nguyễn Trung Hoàng , 42 tuổi, nhà làm phim, rời Việt Nam năm 18 tuổi, từng sống ở Pháp và Mỹ, quay lại Việt Nam năm 2005. Linda Phạm , 27 tuổi, sinh ở Melbourne, Australia, giám đốc mỹ thuật của công ty quảng cáo Saatchi and Saatchi ở TP Hồ Chí Minh. Landon Carnie , 32 tuổi, con nuôi một gia đình người Mỹ từ năm 1975, hiện là giáo viên của một trường đại học quốc tế ở TP Hồ Chí Minh. Voughn Nguyễn , 33 tuổi, giám đốc tiếp thị của tập đoàn Norfolk (kinh doanh bất động sản), lớn lên ở Canberra, Australia, hiện làm kinh doanh ở TP Hồ Chí Minh. Quoc Doan , 29 tuổi, mới trở về San Jose, Mỹ, sau ba năm rưỡi làm đủ thứ việc ở TP Hồ Chí Minh. Tho Vu , 30 tuổi, đã trở về Pháp sau một năm dạy tiếng Pháp trong một trường phổ thông ở Phú Mỹ Hưng, TP Hồ Chí Minh. Van Linh Siharath , 34 tuổi, lớn lên ở Pháp, mới trở về Paris sau một năm sống cùng họ hàng ở Hà Nội để trau dồi tiếng Việt và “tìm lại một phần cội rễ của mình”. |
Phần lớn những người trả lời phỏng vấn cho biết, thời gian ở Việt Nam, họ sống cùng/gần gũi với họ hàng và không gặp khó khăn gì đáng kể trong giao tiếp, mặc dù chưa nói được nhiều tiếng Việt.
Trả lời câu hỏi, bạn tự thấy mình giống người Việt Nam hay người phương Tây hơn, hầu hết cho rằng, họ sống theo khuynh hướng phương Tây, nhưng về bản chất thì vẫn là người Việt Nam: “Ai đó có thể trách tôi bị ‘tẩy trắng’, nhưng tôi vẫn là người Việt Nam. Bạn có thể bỏ châu chấu vào sa mạc, nhưng châu chấu vẫn là châu chấu. Nó chỉ học thích ứng với sa mạc” (Tho); “Tôi ‘rất Pháp’, song tôi cũng muốn hiểu phần bên kia nhiều hơn. Tôi tự hào khi có người lạ nói với tôi bằng tiếng Việt” (Van Linh); “Nước Pháp là nhà, nhưng tôi cũng có ngôi nhà thứ hai là Việt Nam” (Loc); “Tôi tự coi mình là người Việt. Tôi luôn đáp mình là người Việt khi ai đó hỏi quốc tịch” (Linda)...
Mặc dù không khỏi “nhớ” các tiện nghi sinh hoạt và cách tổ chức xã hội hợp lý ở nước ngoài, nhưng khoảng thời gian sống ở Việt Nam đối với họ vẫn hết sức thú vị: “Ở bên Pháp trời hay mưa và lạnh lẽo. Ở đây họ hàng tôi đông hơn, vui hơn” (Loc); “... mọi người ở đây đều cởi mở và thân thiện... Bạn có thể làm quen với họ dễ dàng và gặp nhau bất kỳ lúc nào” (Tho); “Có hôm tôi là người Việt, có hôm tôi lại là Tây. Ngày nào cũng mới mẻ. Là Việt kiều, bạn có thể quen biết đủ loại người” (Quoc). Thậm chí Việt kiều Văn Linh còn cho rằng, “từ Việt Nam về, đường phố Paris dường như trở nên buồn tẻ với tôi, và trống rỗng nữa”.
Điều mà họ cảm thấy khó thích nghi nhất khi ở Việt Nam, đó là cuộc sống ở đây dường như còn thiếu ngăn nắp, trật tự, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông: “Có cảnh sát giao thông thì họ mới tuân thủ, nếu không thì chẳng có luật gì hết” (Hoang); “Đi bộ trên phố là ác mộng” (Landon). Tuy nhiên, như Việt kiều Landon nhấn mạnh, “cái hay ở đây vẫn nhiều hơn cái dở”.
Từ những câu trả lời phỏng vấn, nhà báo kết luận, “những người Việt không có người thân ở nước ngoài cũng nhận thấy thế hệ Việt kiều thứ hai đã khác biệt” so với thế hệ Việt kiều trước, ít nhất là trong cách nhìn nhận về cội rễ, quê hương.
Dưới đây là trích đoạn cuộc phỏng vấn nói trên:
Cảm giác lần đầu trở về của bạn như thế nào?
Quốc: Năm 2001, tôi được tin ông nội mất hôm thứ hai thì thứ sáu tôi lên máy bay về nước. Tôi tới thẳng ngôi làng của nội, cách TP Hồ Chí Minh một giờ xe, về căn nhà nơi tôi chào đời. Sau đó, tôi ra luôn nghĩa trang, 26 người họ hàng có nét mặt hao hao giống tôi đã ở đó, chỉ chờ tôi về là hạ huyệt. Từ mộ ông ra về, tất cả ghé thăm mộ bố tôi. Tôi không rõ đó có phải là một phần của nghi lễ hay không, nhưng đó là khoảnh khắc xúc động nhất trong đời tôi. Tôi vẫn quen nghĩ, gia đình là mẹ và hai chị. Nhìn thấy ngôi mộ ở đó, lần đầu tiên tôi cảm nhận được mình có đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Và tôi đã khóc như một đứa trẻ.
Voughn: Năm 21 tuổi, lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam, tôi đã khóc suốt hai tuần và chỉ muốn quay về Úc. Giờ tôi không chắc đâu là quê hương nữa. Tôi chả nhớ nơi nào khi đi xa.
Van Linh: Tôi gặp họ hàng ở Hà Nội lần đầu vào năm 1998. Tôi đến bằng xích lô. Hồi đó tôi nói tiếng Việt còn kém, nhưng khi tôi giải thích tôi là ai và đưa ra tấm ảnh chụp chung với bà, các cô các bác gái tôi đều khóc. Tôi không được phép ở cùng họ hàng nên ra khách sạn, nhưng chỉ vài ngày. Khi chia tay thì tất cả chúng tôi đều khóc. Từ đó đến nay, tôi đã trở lại Việt Nam nhiều lần, nhưng bây giờ, mỗi khi chia tay, chúng tôi đều biết chắc còn có ngày gặp lại.
Christine: Tôi yêu nơi này ngay từ lần đầu trở lại. Tôi có đại gia đình ở đây và được mọi người săn sóc. Tôi không còn phải lo lắng về tiền bạc - một cảm giác chưa từng có. Kể từ khi về đây sống, tôi phải học cách giao tiếp. Ban đầu tôi rất ngại và cảm thấy gò bó. Chỉ ra khỏi giường để đi chợ thôi cũng đủ rầy rà. Giống như ở trường phổ thông vậy, mọi người để ý từng li từng tí. Bây giờ vẫn bị nhìn, nhưng tôi chẳng để ý.
Linda: Năm đó tôi 12 tuổi, có đến 50 người ra đón chúng tôi ở sân bay và mẹ tôi oà khóc. Ở tuổi đó, tôi không nghĩ đến khía cạnh văn hóa, chỉ nghĩ đó là cuộc đoàn tụ đại gia đình.
Bạn thấy thực phẩm ở Việt Nam ra sao? Bạn có tự đi chợ và nấu ăn không?
Voughn: Chuyện bếp núc hả? Tôi ít khi ở nhà, và thường ra chợ ăn, vừa ngon vừa rẻ.
Landon: Tôi có một quán phở yêu thích của riêng mình. Đi chợ mua đồ về nấu nướng thường tốn kém hơn đi ăn ở ngoài.
Lộc: Tôi thích ăn những món ăn lạ như sầu riêng và thịt chó.
Laurence: Tôi toàn đi ăn ở ngoài. Đồ ăn ở đây ngon và rẻ, vả lại tôi cũng không có thì giờ vào bếp.
Linda: Đi chơi đêm cùng các bạn người Việt chắc chắn không thể thiếu khoản ăn đêm. Ăn tối xong, chúng tôi đi uống sinh tố, rồi lại đi ăn thêm. Suốt năm đầu ở đây, tôi toàn đi ăn ở những ngõ ngách do bạn bè dẫn đến.
Bạn thấy môi trường làm việc ở Việt Nam có gì khác?
Loc: Trước tiên, tìm một việc thú vị ở đây không dễ. Ở Pháp, người làm thuê chủ động và muốn thăng tiến, muốn có thành tựu. Ở đây người ta quen chờ bảo gì thì làm nấy. Tính cá nhân không được đề cao lắm, đôi khi gây mệt mỏi. Tôi không được chuẩn bị cho điều đó. Tất cả những người Việt tôi biết ở Pháp đều khác… Ở đây mọi người làm việc vất vả, nhưng theo cách khác. Tôi nghĩ họ cần học cách chịu trách nhiệm và ra quyết định.
Landon: Trong đội ngũ nhân viên người Việt của chúng tôi, có rất ít người năng động. Họ không có động lực cá nhân. Có thể nói, trong số 30 nhân viên, chỉ có hai người làm việc thực sự. Bất kỳ việc gì, trợ lý của tôi cũng phải hỏi ý kiến tôi nên làm như thế nào, có khi mất đến 30 phút để tranh luận. Tôi có cảm giác mọi người luôn muốn tìm cách thực hiện công việc sao cho nhanh nhất, chứ không nhất thiết phải là cách đúng nhất.
Laurence: Người Việt Nam không thuộc típ đam mê công việc. Đây là xã hội tập thể, vận hành theo lề lối gia đình, và bạn đợi "sếp" chỉ bảo phải làm gì. Thế nhưng cũng có khi "Sếp bảo mình làm việc này, nhưng mình thấy chả hay ho gì, nên đi ăn trưa cái đã"; hoặc "Trải báo ra sàn ngủ cái đã". Tôi đọc e-mail trong khi các bạn đồng nghiệp ngủ trưa.
Linda: Ở nước ngoài, những người làm ở bộ phận sáng tạo đều phóng túng, bộc trực, bật nhạc ầm ỹ trong phòng làm việc và ăn mặc "lố lăng". Văn hóa công sở ở đây bảo thủ hơn nhiều. Tôi không mặc những bộ đồ có thể để lộ hình xăm khi đi làm vì ngại đồng nghiệp nghĩ này nghĩ nọ, và cả vì tôi tôn trọng họ. Dù sao thì mọi người trong công ty của tôi cũng có đầu óc khá cởi mở và chúng tôi có khối trò vui. Tổng giám đốc của chúng tôi là người Mỹ gốc Việt. Giờ ăn trưa ở Việt Nam thật tuyệt. Ở Melbourne thì may ra bạn có 30 phút.
Christine: Quá trình làm việc với người Việt Nam cho tôi một cái nhìn hơi gay gắt về họ. Họ làm mọi việc đều thiếu bài bản. Cái gì cũng không có hệ thống và tổ chức. Nhưng gặp được những người hiểu rõ sự khác biệt giữa cung cách làm việc của phương Đông và phương Tây thì rất tốt.
Bạn yêu và sẽ truyền cho con bạn những nét văn hoá nào của Việt Nam?
Christine: Nếu có con, tôi sẽ dạy chúng ngôn ngữ và văn hoá, nhưng chắc chắn không phải là cách nghĩ của nhiều người Việt Nam. Tôi có cảm giác ở đây người ta đã bắt đầu “vận hành” theo văn hoá MTV, chẳng hạn như nhất thiết phải có xe máy “xịn” hay điện thoại đời mới, trong khi không đủ tiền để nạp thẻ hay đổ xăng đầy bình.
Hoang: Phụ nữ ở đây thật tuyệt vời. Họ đi làm, sau đó về nhà, nấu ăn, dọn dẹp và chăm lo cho chồng con. Bên cạnh văn hoá Việt Nam, tôi còn hấp thụ văn hoá Pháp và Mỹ, và tôi dự định sẽ dạy cho con về cả ba nền văn hoá. Trẻ con Mỹ quá tự do. Chúng không nghe lời chỉ dạy của bạn, và cũng không tôn trọng người lớn.
Van Linh: Ở đây không ai trong gia đình bạn bị bỏ rơi hay không được chăm sóc. Ở Pháp, tôi chỉ có mẹ, bà ngoại, cha dượng và em. Ở Việt Nam, gia đình là tất cả những người quanh bạn. Không được sống trong bầu không khí đó khi lớn lên, nhưng tôi muốn có nó trong tương lai. Tôi muốn hoà trộn những giá trị truyền thống và hiện đại, giống như một nữ thương gia ăn mặc chỉnh tề đi lễ chùa; hay giống như những cô gái đi chợ mà vẫn hồn nhiên mặc đồ ngủ.
Loc: Tôi vẫn coi trọng giá trị gia đình. Ở đây mối gắn kết gia đình vẫn bền chặt. Cha mẹ tôi đã dạy dỗ tôi như vậy. Người Việt Nam rất coi trọng thành đạt. Người Mỹ lại trọng tự do hơn. Ở đây, bạn phải hướng tới sự thành đạt, kiếm tiền và lập gia đình. Việc đó cũng có điểm hay, đặc biệt trong giáo dục, nó giúp trẻ con tiến lên phía trước. Tôi sẽ dạy tiếng Việt cho con mình. Đó là chìa khoá giúp chúng tiếp cận kho báu di sản. Nhưng trên hết, tôi sẽ duy trì các giá trị gia đình vì đó là sự nâng đỡ lớn.
Khi trưởng thành, tôi được dạy dỗ về những giá trị châu Á cổ truyền. Nhưng thực tế cuộc sống ở Việt Nam lại khác. Bộ mặt và danh tiếng rất quan trọng. Đến nơi công cộng, ai cũng muốn tỏ ra mình đáng giá hơn người bên cạnh. Nhưng ở nơi riêng tư lại khác. Trong khi phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết thì đàn ông tha hồ nhậu nhẹt và tán tỉnh. Và cho dù không ai nói về tình dục thì gia đình vẫn cứ phình to.
Tho: Người Việt luôn nói về văn hoá truyền thống. Nhưng chỉ có thể thấy điều đó ở nông thôn. Giống như nông thôn Pháp, người ta sống đơn giản, tự cung tự cấp. Hạnh phúc là nhờ bạn hạn chế tối đa nhu cầu. Nếu bạn không biết, bạn sẽ không thèm muốn.
Vough: Tôi nhận ra mình còn chịu ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam hơn cả bạn bè ở đây, những người đang muốn “thoát khỏi” truyền thống. Bà chủ nhà của chúng tôi, dù mang quốc tịch Úc, vẫn giữ những tập tục đã nhanh chóng bị lãng quên trong xã hội Việt Nam hiện đại. Cha tôi sống rất “cổ”, chăm chỉ thờ phụng tổ tiên và theo nếp sinh hoạt truyền thống. Nếu có con, tôi hy vọng chúng trung thực, kính trọng người trên, bất kể chúng hấp thụ nền văn hoá nào. Nhưng nói nghiêm túc, tôi sẽ không dạy con cái phần lớn các giá trị mà tôi thấy ở Việt Nam.
Cha mẹ tôi vẽ ra bức tranh mầu hồng về Việt Nam, tôi nghĩ nó giống như những bài hát mà họ vẫn nghe. Phụ nữ rám nắng, hiền hòa, đàn ông thì hào hiệp. Vợ chồng chung thuỷ đến đầu bạc răng long. Thanh niên kính trọng người già. Nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Tất cả chúng ta thường hình dung sai lạc về những đất nước mà chúng ta chưa bao giờ biết.