Về vấn đề khai sinh trong Nghị định 83/1998/NĐ-CP:

Một số vướng mắc cần tháo gỡ

Về việc cấp lại bản chính giấy khai sinh

Theo Nghị định 83/1998/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 25-10-1998 thay thế Điều lệ 04/CP ngày 16-1-1961 của Chính phủ, bản chính giấy khai sinh chỉ được cấp một lần, không cho phép cấp lại, nhưng đồng thời nếu bản chính giấy khai sinh và sổ gốc bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được thì được đăng ký lại việc sinh. Sau khi đăng ký lại việc sinh, đương sự được cấp một bản chính giấy khai sinh mới. Đây là một nghịch lý, vì nếu bản chính khai sinh mất mà sổ gốc còn, đương sự không thể có bản chính khai sinh mới, nhưng khi cả hai yếu tố: Bản chính và sổ gốc đều mất thì đương sự lại được cấp khai sinh mới nhờ việc đăng ký lại.

Trong khi trên thực tế, tình trạng công dân mất bản chính khai sinh nhưng sổ gốc đăng ký khai sinh vẫn còn lưu tại UBND xã nơi đăng ký khai sinh trước đây là khá phổ biến. Mặt khác, nhu cầu của nhân dân và yêu cầu của nhiều cơ quan nhà nước về giấy khai sinh bản chính khi nhận hồ sơ là rất lớn. Nghị định 83 đã "trói tay" cán bộ hộ tịch trước nhu cầu này. Một số nơi đã làm "chui", cấp bản chính giấy khai sinh cho đương sự theo sổ gốc, nhưng điều này là trái quy định hiện hành.

Do đó cần có quy định cho phép cấp lại bản chính giấy khai sinh từ sổ gốc.

Về việc cấp lại bản sao giấy khai sinh

Nghị định 83 quy định việc cấp bản sao khai sinh phải theo sổ gốc. Có những trường hợp công dân có bản chính giấy khai sinh, sổ gốc lưu tại xã không còn, công dân muốn có bản sao khai sinh do UBND xã cấp, nếu căn cứ vào Nghị định 83/1998/NĐ-CP thì không thể thực hiện được việc này, mà công dân phải đi công chứng, chứng thực. Điều này là khá bất tiện, nhất là ở những nơi xa cơ quan công chứng, chứng thực. Nếu cho phép cấp bản sao khai sinh dựa theo bản chính sẽ dễ dàng cho cả công dân và UBND xã mà không ảnh hưởng gì đến tính chính xác của các dữ liệu trong giấy khai sinh.

Thời hạn đăng ký khai sinh

Theo Điều 18 Nghị định 83, thời hạn đăng ký khai sinh là 30 ngày kể từ ngày sinh trẻ em (thời hạn là 60 ngày đối với miền núi, vùng sâu,vùng xa). Thực tế ở nhiều nơi nhất là vùng nông thôn, khi con đầy tháng bố mẹ mới tìm tên đặt cho con, hoặc do bận rộn nhiều công việc, sau khi trẻ chào đời bố mẹ không thể khai sinh cho trẻ trong vòng 30 ngày kể từ khi sinh trẻ. Do vậy nên quy định chung thời hạn đăng ký khai sinh cho trẻ là 60 ngày kể từ khi trẻ được sinh ra. Quy định như vậy, do phù hợp với thực tế và tâm lý của người dân sẽ góp phần giảm tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn đang khá cao ở một số nơi, nhất là vùng nông thôn.

Về thủ tục trong việc cấp giấy khai sinh cho trẻ ngoài giá thú, nay có người nhận làm cha đứa trẻ

Theo các quy định trong Nghị định 83, trường hợp đứa trẻ là con ngoài giá thú, khi khai sinh mang họ mẹ, nay có người nhận làm cha đứa trẻ, nếu muốn mang họ cha thì phải làm thủ tục thay đổi từ họ mẹ sang họ cha. Những trường hợp như vậy khá nhiều: Làm thủ tục thay đổi trong trường hợp này là rất phiền toái cho công dân, trong khi bản chất vấn đề chỉ là một sự bổ sung: Bổ sung tên cha vào giấy khai sinh của đứa trẻ, và thông thường hậu quả là đứa trẻ mang họ cha thay vì họ mẹ trước đây, vì tập quán của đa số nhân dân ta là con mang họ cha. Vì vậy, chúng tôi cho rằng không cần làm thủ tục thay đổi hộ tịch trong trường hợp này mà nên quy định cho phép thu hồi, hủy bỏ giấy khai sinh cũ (nội dung: Con mang họ mẹ), cấp giấy khai sinh mới (con mang họ cha), khi đã có quyết định công nhận cha, mẹ, con. Như vậy sẽ tạo thuận lợi cho công dân, giúp ích cho đứa trẻ, mà không ảnh hưởng gì đến trật tự quản lý hộ tịch.

Thẩm quyển thay đổi, cải chính hộ tịch

Quy định thẩm quyền thay đổi, cải chính hộ tịch thuộc về UBND cấp tỉnh như hiện nay đã gây nhiều khó khăn cho công dân. Có khi chỉ thay đổi hoặc cải chính một dữ liệu hộ tịch rất nhỏ (thí dụ như năm sinh của người cha trong giấy khai sinh của người con...), giấy tờ của đương sự chưa nhiều (vì đương sự ít tuổi, thậm chí chưa đi học), người dân cũng phải lặn lội, đi lại nhiều lần tới các Sở Tư pháp cấp tỉnh để làm thủ tục.

Theo chúng tôi, nên giao cho UBND cấp xã thay đổi cải chính hộ tịch các trường hợp đơn giản, thí dụ như đối với người chưa đủ 15 tuổi (vì thực tế đây là độ tuổi chưa đi làm, chưa có chứng minh nhân dân, giấy tờ cá nhân chưa nhiều). Những trường hợp trẻ dưới 6 tuổi có yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, nên chăng cần cho phép thu hồi, hủy bỏ giấy khai sinh ban đầu, cấp giấy khai sinh mới nếu đủ điều kiện thay đổi, cải chính hộ tịch (hiện nay việc thu hồi, hủy bỏ và cấp mới này mới chỉ được áp dụng với trường hợp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng ký khai sinh, nếu phát hiện có sai sót trong giấy khai sinh do ghi chép của cán bộ hộ tịch hoặc do đương sự khai báo nhầm lẫn). Những trường hợp đủ 15 tuổi trở lên vẫn do UBND cấp tỉnh cải chính, thay đổi hộ tịch do tính chất phức tạp hơn, yêu cầu xác minh rộng hơn.

Đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú:

Còn nhiều lúng túng!

Từ những quy định chung chung

Việc đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú được quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP "Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, phần khai về cha, mẹ khi chưa xác định được thì trong giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh để trống. Nếu có người nhận làm cha, mẹ của trẻ em thì căn cứ vào quyết định công nhận việc cha, mẹ nhận con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ghi tên của người được công nhận là cha, mẹ vào phần khai về cha, mẹ trong giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh của người con". Với quy định như trên, hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 12 cũng không có gì rõ ràng. Với việc quy định: "Nếu có người nhận là cha, mẹ trẻ em..." thì sẽ tạo ra cách hiểu là: Khi đăng ký khai sinh cho trẻ ngoài giá thú, nếu không có mẹ (không xác định được mẹ) thì người cha (người nhận là cha) có quyền đăng ký khai sinh và được ghi tên vào phần ghi người cha trong giấy khai sinh của người con - còn phần ghi người mẹ để trống. Đây là một cách hành văn có tính máy móc. Thật vậy khi soạn câu chữ, chúng ta thường cho thêm (cha, mẹ) vào ngữ cho đủ, cho chặt chẽ một cách vô cảm (thí dụ: Các trường hợp theo luật định, hoặc các giấy tờ hợp lệ khác) mà không xác định rõ là các trường hợp đó có hoặc tồn tại trên thực tế không. Mà nếu có thì xử lý ra sao. Trên thực tế, hầu như tất cả các trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú đều do người mẹ thực hiện (do thiên chức làm mẹ khi sinh con và cách xác định quan hệ mẹ con khá dễ dàng). Ở đây, đứa trẻ được mẹ đăng ký khai sinh tại UBND cấp xã theo thủ tục đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú. Theo quy định phần ghi người cha để trống, trẻ được mang họ mẹ, chỉ khi nào có người nhận là cha thì căn cứ vào quyết định công nhận cha, mẹ, con... thì mới ghi phần người cha trong giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh (Nghị định 83, Thông tư số 12...).

Tuy nhiên. trong trường hợp người mẹ không xác định được (bỏ đi, mất tích, hoặc tử vong sau khi sinh...), sau đó người cha đi đăng ký khai sinh cho con theo thủ tục đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú và đã được đăng ký khai sinh - được ghi vào phần ghi người cha - phần ghi người mẹ để trống (như quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định 83). Ở đây, căn cứ mấu chốt là không xác định được người mẹ, còn người cha được xác định và tiến hành đăng ký khai sinh cho con. Nhưng căn cứ vào đâu để xác định người cha đó là cha của đứa trẻ (đối với thẩm quyền của UBND cấp xã) thì Nghị định 83 và Thông tư 12 không có quy định, hướng dẫn, không có phương án giải quyết dẫn tới việc giải quyết lúng túng không thống nhất, gây tranh chấp sau này.

Tháo gỡ bằng giải pháp nào

Chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến sau về cách xác định người cha (tại thời điểm đăng ký khai sinh):

Trường hợp I: Người cha và người mẹ sống với nhau như vợ chồng (không, chưa ĐKKH) nhưng được họ hàng, xóm giềng thừa nhận, việc sinh trẻ có nhiều người chứng kiến (sinh trẻ tại cơ sở y tế có thẩm quyền). Sau đó, người mẹ bỏ đi hoặc mất tích v.v... nhưng đứa trẻ được người cha và mọi người thừa nhận, các yếu tố để xác định quan hệ cha - con đều rõ ràng, không có người thắc mắc, khiếu kiện thì UBND nơi người cha cư trú thực hiện đăng ký khai sinh theo thủ tục đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú theo thẩm quyền.

Trường hợp II: Khi trẻ sinh ra, người mẹ sau đó bỏ đi hoặc mất tích v.v... không có các điều kiện như trường hợp I, căn cứ để xác định quan hệ cha - con không rõ ràng thì cán bộ hộ tịch có thể yêu cầu người nhận là cha đứa trẻ chứng minh quan hệ cha - con bằng các thủ tục như: Xét nghiệm máu, gen (ADN)... hoặc các phương pháp khoa học được công nhận tại các cơ sở y tế có thẩm quyền. Sau khi có kết luận rõ ràng của cơ sở, trung tâm y tế có thẩm quyền thì mới tiến hành đăng ký khai sinh.

Trường hợp III: Khi cán bộ hộ tịch - tư pháp đã yêu cầu người nhận là cha đứa trẻ chứng minh quan hệ cha - con như đối với trường hợp II nhưng người đó không đủ điều kiện xét nghiệm máu, phân tích ADN tại trung tâm y tế có thẩm quyền hoặc từ chối không thực hiện, có nghĩa là không xác định được quan hệ cha - con, thì không đăng ký khai sinh. Đến đây, cán bộ hộ tịch phải tiến hành ngay các thủ tục, biện pháp, lập biên bản về tình trạng trẻ sơ sinh bị bỏ rơi với các đơn vị có thẩm quyền, cử người nuôi dưỡng trẻ và đăng ký khai sinh cho trẻ theo thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi chứ không đăng ký khai sinh theo thủ tục đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú. Nếu sau này người nhận là cha đó vẫn có ý nuôi con thì hướng dẫn họ thực hiện các thủ tục nhận nuôi con nuôi.

Có thể bạn quan tâm