Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp

Trong 20 năm đổi mới, những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực hành chính đã mang lại nhiều thay đổi căn bản trong đời sống xã hội nước ta. Trong lĩnh vực sự nghiệp (giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội, v.v.) cũng đã có không ít đổi mới, song còn chậm so với những bước tiến về đổi mới kinh tế, hành chính.

Công cuộc phát triển trong những năm sắp tới đòi hỏi những đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt động của đời sống xã hội, vì vậy việc đổi mới lĩnh vực sự nghiệp trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Tôi xin góp ý có một số vấn đề trong nhiệm vụ đổi mới lĩnh vực sự nghiệp ở nước ta trong thời gian tới.

... Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, lĩnh vực hành chính đã và đang thực hiện Chương trình cải cách hành chính đồng bộ, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đang tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế tương đối toàn diện. Riêng lĩnh vực sự nghiệp mới đưa vào thực hiện một số thay đổi, chưa có một chương trình đổi mới hoàn chỉnh. Trong khi đó, lĩnh vực sự nghiệp có số lượng viên chức đông (gấp khoảng 5 lần khu vực hành chính), bao gồm gần như toàn bộ đội ngũ trí thức của đất nước, đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (có thể đến hơn 10% theo thống kê ở nước ngoài), giữ vai trò vừa là nền tảng, vừa là động lực của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và đổi mới.

Vì những lẽ trên, trong giai đoạn hiện nay có nhu cầu cấp thiết xây dựng và thực hiện một chương trình đổi mới đồng bộ và tương đối toàn diện lĩnh vực sự nghiệp, đặt trọng tâm vào những ngành giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, v.v. là những ngành chiếm khối lượng lớn nhất trong lĩnh vực sự nghiệp, cả về số viên chức, lượng vốn đầu tư, năng lực đóng góp vào sự phát triển của cả xã hội và mỗi một con người.

Lĩnh vực sự nghiệp trong thời kỳ đổi mới

Trong thời kỳ áp dụng cơ chế cũ, nhất là trong những năm tháng chiến tranh, cơ chế hành chính bao cấp đã từng tạo điều kiện cho các ngành sự nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất định. Song sang thời bình, và nhất là khi bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế, các ngành sự nghiệp đã tỏ ra rất lúng túng, do nhu cầu về số lượng và chất lượng sự nghiệp tăng lên đột biến trong khi khả năng cung cấp của ngân sách lại rất có hạn. Những nhược điểm của cơ chế cũ bộc lộ trên nhiều mặt và sự hiểu biết không đầy đủ về cơ chế thị trường đã dẫn đến những hiện tượng phá rào (dạy thêm, học thêm), thương mại hóa (thông đồng giữa thầy thuốc và cửa hàng bán thuốc), hay thậm chí phạm pháp (mua bán bằng cấp, điểm thi). Dĩ nhiên, không thể quy lỗi tất cả những tiêu cực hiện nay trong các ngành sự nghiệp vào nguyên nhân cơ chế, song phải thừa nhận rằng, nhiều vấn đề nảy sinh hiện nay một phần bắt  nguồn từ cơ chế.

Các tổ chức và đơn vị sự nghiệp trước đây hầu hết - nếu không nói là tất cả - đều thuộc Nhà nước và hoạt động giống như một cơ quan hành chính, có khi còn kiêm cả một nhiệm vụ về quản lý mang tính chất hành chính. Kế hoạch và chương trình hoạt động thường được cấp trên giao cụ thể: danh mục đề tài nghiên cứu, chỉ tiêu tuyển sinh, số giường bệnh, số phim phát hành trong năm, v.v. nhất nhất đều do cấp trên quyết định. Về tài chính, đơn vị sự nghiệp là đơn vị dự toán như cơ quan hành chính, chỉ dựa vào một nguồn đầu vào từ ngân sách nhà nước, chi và thu đều theo dự toán được cấp trên duyệt. Về tổ chức cán bộ, cấp trên quyết định định biên, tuyển chọn cán bộ nhân viên; việc sắp xếp lương bổng, cử cán bộ đi nước ngoài, thành lập đơn vị trực thuộc, v.v. nhất nhất đều phải được cấp trên phê duyệt.

Với cơ chế như trên, các tổ chức sự nghiệp có rất ít quyền chủ động trong các hoạt động của mình, trong khi đó hoạt động sự nghiệp thường có tính chuyên môn sâu, cán bộ quản lý cấp trên sớm có được quyết định quản lý là rất khó. Bên cạnh sự thiếu mẫn cảm với cái mới, cơ chế thụ động của các tổ chức sự nghiệp còn làm chậm trễ và mai một khả năng sáng tạo của một lớp cán bộ khoa học - công nghệ và văn học - nghệ thuật và cả các tổ chức cơ sở của họ. Sự sáng tạo đó không ai có thể làm thay họ và thiếu nó thì không thể nói đến tiến bộ trong khoa học và văn hóa.

Tình hình trên chứng tỏ hoạt động sự nghiệp trong cơ chế cũ còn quá tập trung vào Nhà nước, hoạt động và quản lý theo kiểu hành chính, quan liêu, dựa chủ yếu vào sự bao cấp của Nhà nước về ngân sách. Hoạt động sự nghiệp cũng giống như các lĩnh vực khác, cũng mắc những khuyết điểm và tồn tại bao trùm mà Ðại hội VI của Ðảng đã phê phán là "tập trung, quan liêu, bao cấp", có khác là trong lĩnh vực sự nghiệp những tồn tại này khó nhận rõ, vì khó phân biệt giữa bao cấp và cung cấp nhà nước, giữa tập trung và yêu cầu lãnh đạo thống nhất...

Bước sang thời kỳ đổi mới, các ngành sự nghiệp gặp nhiều khó khăn trong khi nhiệm vụ thời bình và thời kỳ đổi mới đặt ra nhiều vấn đề khó giải nên không tránh khỏi lúng túng và bất cập. Hiểu biết hạn chế về cơ chế thị trường đã dẫn đến một số hiện tượng không lành mạnh, không được xã hội đồng tình ủng hộ.

Ðể huy động thêm nguồn lực bổ sung cho năng lực có hạn của ngân sách, đồng thời với hy vọng cải thiện phần nào chất lượng của hoạt động sự nghiệp, Nhà nước đã và đang thực hiện chủ trương "xã hội hóa" các ngành sự nghiệp, với ý nghĩa thực chất như là hoàn thiện và thể chế hóa biện pháp "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã nêu ra từ một, hai thập kỷ trước đây. Tuy mới đi vào thực hiện được vài năm, song chủ trương xã hội hóa đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, chủ trương xã hội hóa chưa phát huy kết quả rõ rệt về mặt nâng cao chất lượng của các ngành sự nghiệp; đồng thời, những cảnh báo của dư luận về khía cạnh công bằng xã hội bắt đầu nảy sinh vấn đề đáng quan tâm. Mặt khác, cần nhận rõ "xã hội hóa" chỉ là một phần trong cải cách cơ cấu của các ngành sự nghiệp, không thể thay thế được toàn bộ công cuộc đổi mới trong lĩnh vực rộng lớn và quan trọng này.  Về mặt cơ chế, thay đổi đáng kể trong thời gian qua là Nghị định 10/CP về đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị gọi là "sự nghiệp có thu" và các văn bản mới quy định về quyền tự chủ của các tổ chức sự nghiệp. Nghị định 10/CP đã giải quyết một số vướng mắc hiện nay và được các đơn vị sự nghiệp hoan nghênh, song mới nặng về giải quyết một số quyền tự chủ tài chính trong phần chi, còn về phần thu thì chưa được đề cập; ngoài ra, ngay trong phần chi cũng còn những vấn đề về định mức, thủ tục, v.v. vẫn còn dư địa để cải tiến. Về những đổi mới khác trong quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm mới ban hành, thời gian còn quá ít để có thể đánh giá hiệu quả.

Nhìn chung, chính sách đối với lĩnh vực sự nghiệp đã có không ít đổi mới, song kết quả chưa tạo ra được chuyển biến đáng kể:

- Hiệu quả và chất lượng các hoạt động sự nghiệp nói chung còn thấp, không theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới nói riêng và của tiến trình phát triển nói chung. Tuy về mặt số lượng có tiến bộ đáng kể, song nhìn về chất lượng còn nhiều vấn đề đáng quan tâm.

- Trình độ và chất lượng các hoạt động sự nghiệp là một thước đo trình độ văn hóa, văn minh của mỗi quốc gia; nếu tự so sánh với ta vài chục năm về trước thì nước ta đã có nhiều tiến bộ, nhất là về số lượng, nhưng nếu so sánh với các nước trong vùng thì chúng ta chưa khôi phục được vị trí so sánh của nước ta 30 - 40 năm về trước và hiện nay còn đang để lại một khoảng cách đáng kể. Cần chú ý rằng muốn đuổi kịp các nước thì trước hết khoảng cách về sự nghiệp giáo dục, văn hóa, con người không thể để doãng ra hơn nữa. Vì vậy, sự so sánh quốc gia về các hoạt động sự nghiệp là một tiêu chí đáng quan tâm về phát triển.

Nguyên nhân gây ra những sự chậm trễ trên có nhiều, song đáng chú ý có mấy vấn đề có liên quan với nhau sau đây:

- Có nhiều bỡ ngỡ khi đi vào kinh tế thị trường, những chủ trương của các ngành và chính sách của Nhà nước thường đi vào tìm cách giải quyết những vướng mắc cụ thể, không tạo ra được một chuyển biến căn bản và toàn diện về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp tương ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Các hoạt động sự nghiệp còn dựa quá nhiều vào Nhà nước, cả về cán bộ, tổ chức, kinh phí, không phát huy được những yếu tố tích cực của cơ sở và tính chủ động của hoạt động sự nghiệp.

- Các cơ quan sự nghiệp thường được quản lý như các đơn vị hành chính, về tài chính coi như những đơn vị dự toán, về tổ chức là những đơn vị trực thuộc có cấp trên trực tiếp, vừa thiếu quyền tự chủ vừa không rõ trách nhiệm về hoạt động của mình.

- Giá cả sản phẩm sự nghiệp và tiền công trả cho lao động sự nghiệp đều do Nhà nước quy định, không sát với giá trị của loại lao động đặc thù trong khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật. Vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền tác giả đối với nhiều loại sản phẩm sự nghiệp cũng chưa được làm rõ.

Vị trí, vai trò của lĩnh vực sự nghiệp trong giai đoạn phát triển mới

Trong công cuộc phát triển và công nghiệp hóa của mỗi nước, khoa học - công nghệ và giáo dục, đào tạo nói riêng và các lĩnh vực sự nghiệp nói chung bao giờ cũng giữ một vai trò rất quan trọng. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta, giáo dục, đào tạo và khoa học - công nghệ được coi vừa là nền tảng, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, cùng với các ngành sự nghiệp khác là những điều kiện tiền đề không thể thiếu của yêu cầu phát triển. Chúng ta cần phát triển bền vững và chọn con đường công nghiệp hóa rút ngắn thời gian, nhanh và vững chắc. Muốn vậy, không có con đường nào khác ngoài việc dựa vào công nghệ mới, năng lực mới, phải phát triển mạnh mẽ giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ để nhanh chóng tạo ra năng suất cao và năng lực sáng tạo mới. Vì vậy có thể nói, nếu đã coi giáo dục, đào tạo và khoa học - công nghệ là nền tảng và động lực của phát triển và công nghiệp hóa thì đối với yêu cầu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và rút ngắn thời gian, phải coi khoa học - công nghệ và giáo dục, đào tạo là động lực chủ yếu và không thể thiếu.

Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, lấy mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong suốt quá trình phát triển, những mục tiêu xã hội mới thật sự là mục tiêu cuối cùng, sự phát triển của con người là tâm điểm của mọi chính sách phát triển. Trong giai đoạn trước mắt lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, chúng ta phải bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội, vừa đẩy mạnh tăng trưởng, vừa thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng, miền, giữa các cộng đồng dân cư. Có thể trong một thời gian, khoảng chênh lệch về kinh tế chưa thể rút ngắn, song về mặt xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa...) cần giữ cho khoảng cách không mở rộng và dần dần thu hẹp lại bằng các chính sách tài chính và chính sách đầu tư thích hợp. Như vậy, với định hướng xã hội chủ nghĩa, các lĩnh vực sự nghiệp, các lĩnh vực về phát triển con người càng cần được đặt vào vị trí xứng đáng.

Chúng ta đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời coi trọng sự cân đối giữa hai mặt kinh tế và xã hội. Khi sự phát triển kinh tế đã đi vào quỹ đạo bình thường, vai trò "Nhà nước kinh tế" sẽ nhường chỗ cho hình thức "Nhà nước phục vụ", coi dịch vụ công ích là nhiệm vụ trung tâm, trong đó bao gồm cả dịch vụ về văn hóa, xã hội (giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, v.v.) và dịch vụ về đời sống (thông tin, môi trường, giao thông, điện nước, v.v.). Ðể chuẩn bị cho tương lai đó, ngay trong giai đoạn hiện tại, các ngành sự nghiệp lại càng phải được coi trọng.

Như vậy, xét về mọi mặt, lĩnh vực sự nghiệp giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình đi lên của đất nước, và vấn đề đổi mới lĩnh vực sự nghiệp đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Những vấn đề chính của một chương trình đổi mới lĩnh vực sự nghiệp cần được làm rõ.

Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đổi mới lĩnh vực sự nghiệp

Theo tôi, mục tiêu cụ thể của chương trình đổi mới lĩnh vực sự nghiệp là tạo ra hiệu quả và chất lượng ngày càng cao trong các ngành sự nghiệp chính (giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, sức khỏe, văn hóa, thể thao) và lan tỏa dần ra toàn bộ lĩnh vực sự nghiệp; đồng thời, bảo đảm sự cân bằng giữa chính sách kinh tế và chính sách văn hóa - xã hội, giữa nhịp độ cải cách kinh tế và cải cách văn hóa - xã hội.

Vì vậy, mục tiêu chung và dài hạn là tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo tôi, phương hướng chính của cải cách sự nghiệp là:

- Sử dụng đúng đắn các quy luật kinh tế thị trường để nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động sự nghiệp (quy luật cạnh tranh, quan hệ cung cầu, giá cả...), đồng thời không để các tác động tiêu cực của thị trường ảnh hưởng đến bản chất cao đẹp của lĩnh vực sự nghiệp.

- Dùng năng lực vật chất của Nhà nước để tạo điều kiện phát triển cân đối giữa kinh tế và văn hóa - xã hội, làm cho khoảng cách về phát triển văn hóa - xã hội giữa các vùng có thể thu hẹp lại sớm hơn sự chênh lệch về phát triển kinh tế.

- Hiệu quả về phát triển lĩnh vực sự nghiệp được hiểu theo nghĩa hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp. Chất lượng được hiểu là chất lượng thích nghi với các tiêu chuẩn quốc tế.

- Yêu cầu cải cách trong lĩnh vực sự nghiệp là yêu cầu tương đối toàn diện, cả về cơ cấu và cơ chế, cả về số lượng và chất lượng, về đại trà và mũi nhọn, để cho các ngành sự nghiệp chính nước ta cũng có "sức cạnh tranh" trong vùng và về một số mặt trong môi trường quốc tế.

Từ đó, nhiệm vụ chủ yếu về cải cách lĩnh vực sự nghiệp có thể bao gồm:

- Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa và mở rộng thu hút các nguồn lực xã hội vào việc phát triển lĩnh vực sự nghiệp. Trong khi mở rộng các nguồn tham gia vào phát triển sự nghiệp, cần chú ý: a) có biện pháp cân đối và biện pháp chế tài để tránh làm tăng thêm bất bình đẳng trong xã hội và khắc phục những tiêu cực bất lợi; b) có phương pháp tổ chức thích hợp để huy động sự tham gia của các chủ thể xã hội hóa vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động sự nghiệp; c) xây dựng một quy hoạch mạng lưới tổ chức sự nghiệp phù hợp với yêu cầu và khả năng huy động của từng thời kỳ phát triển.

- Xây dựng thể chế mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp thuộc Nhà nước, coi đây là chính sách chủ yếu để nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động sự nghiệp. Chế độ tự chủ bao gồm tự chủ đầy đủ về kế hoạch hoạt động và phát triển của đơn vị, tự chủ đầy đủ về tài chính cả phần thu và phần chi, tự chủ đầy đủ về tổ chức bộ máy và nhân sự. Chế độ tự chịu trách nhiệm xác định đơn vị sự nghiệp là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập (trừ một số ít có thể còn giữ tư cách phụ thuộc một thời gian nhất định), là đơn vị hạch toán độc lập, là tổ chức phi lợi nhuận với trách nhiệm hữu hạn và được điều chỉnh bởi luật lệ riêng. Loại hình tổ chức sự nghiệp đương nhiên tách ra khỏi khối hành chính, nhưng cũng không hoạt động theo "cơ chế doanh nghiệp".

- Cơ chế tài chính tự chủ đặt ra một số vấn đề xuất phát từ việc chuyển từ chế độ dự toán sang chế độ tự hạch toán hay hạch toán độc lập. Những năm đầu, có thể có ba mức hạch toán: một số đơn vị chưa có khả năng thu (như thực hiện các dịch vụ hành chính) vẫn tiếp tục thực hiện chế độ dự toán; một số đơn vị có điều kiện tự hạch toán, có thể cân đối thu chi, thì thực hiện cơ chế hạch toán độc lập đầy đủ. Còn lại số đơn vị nằm ở khoảng giữa, có thu nhưng không đủ chi, thì áp dụng cơ chế tự hạch toán một phần, lấy thu bù chi và nhận một phần nguồn tài chính từ ngân sách trong một thời gian nhất định. Trong quá trình cải cách từng bước, những đơn vị dự toán sẽ chuyển thể dần thành đơn vị hạch toán một phần; những đơn vị hạch toán một phần sẽ chuyển thể dần thành đơn vị tự hạch toán đầy đủ; một số đơn vị hạch toán độc lập có điều kiện cũng có thể chuyển sang thành doanh nghiệp. Quá trình chuyển đổi đó cần có thiết kế để thực hiện và có thời gian để hoàn thành, tốt nhất không vượt qua năm 2010.

Tóm lại, việc đổi mới các ngành sự nghiệp (giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa, v.v.) đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trong toàn bộ công cuộc đổi mới của đất nước. Song đổi mới lĩnh vực sự nghiệp không phải đơn giản, dễ dàng, cần tiến hành một cách đồng bộ và tương đối toàn diện.

Trước hết, cần xây dựng một chương trình đổi mới các ngành sự nghiệp hoàn chỉnh, dựa trên những kết quả khảo sát, điều tra đầy đủ và phân tích kinh tế - xã hội chi tiết để đề xuất những giải pháp cụ thể, bảo đảm trong vòng kế hoạch 5 năm tới có thể hoàn thành về cơ bản.

Thực hiện một chương trình đổi mới phức tạp liên quan đến nhiều ngành và rất nhiều đối tượng trong lĩnh vực sự nghiệp, rất cần có một cơ chế phối hợp đủ năng lực để đưa công cuộc này đến kết quả mỹ mãn.

GS ÐỖ QUỐC SAM

Có thể bạn quan tâm