Người trong ảnh
Khi chúng tôi đến, o Lai đang chơi với đứa trẻ con nhà hàng xóm, còn ông Đức - chồng o Lai - ngồi uống nước bên cạnh. Biết chúng tôi muốn viết về o Lai, ông Đức nhiệt tình vui vẻ lục lọi từ trong tủ ra những chồng báo dày viết về vợ, cả những vật phẩm, quà lưu niệm. Ông nói với giọng tự hào: "Có gì về bà ấy là tôi giữ lại tất. Báu vật của vợ chồng tôi đó". Rồi ông giải thích tỉ mỉ về các tư liệu tranh ảnh cho tôi. Còn o Lai cười hiền hậu: "Bố Đức là thủ thư của tôi đó. Hễ có kỷ niệm gì hay bài báo nào viết về tôi là ông ấy giữ cẩn thận lắm. Thỉnh thoảng mang ra đọc cho tôi nghe".
O Lai pha trà mời khách, tôi có dịp nhìn lại o du kích nhỏ tôi đã gặp cách đây năm năm. Khi ấy o còn công tác, vất vả, nhà cửa thô sơ, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên gầy và lam lũ hơn bây giờ nhiều. O tâm sự: "Gia đình tôi mới xây được ngôi nhà này, đỡ vất vả hơn trước. Hiện tại cả ba cháu đều đã trưởng thành. Cháu lớn theo nghiệp mẹ, đang công tác ở bệnh viện Đông y Hà Tĩnh. Đứa thứ hai đang công tác trong ngành công an ở TP Hồ Chí Minh. Còn cô út đang làm kế toán trường dạy nghề Cơ khí Thái Nguyên".
Cuộc hội ngộ sau 30 năm
Chiều tối ngày 20-9-1965, một chiếc trực thăng Mỹ bay tới Hương Khê để ứng cứu cho một máy bay vừa bị quân ta bắn cháy. Nó quần đảo tìm nơi hạ cánh nhưng đã bị quân ta hạ gục. Viên phi công Mỹ nhảy dù thoát chết, lợi dụng đêm tối và núi rừng lẩn trốn chờ cứu viện: Đêm đó Hương Khê đã huy động các lực lượng dân quân ở các xã Phú Phong, Phú Xuân, Lộc Yên, nông trường 20-4 tổ chức săn lùng vây ráp nhưng không có kết quả.
Trưa ngày hôm sau, o Lai một mình khoác tiểu liên đi bộ xuống khe suối. Khi vừa bỏ mũ ngụy trang vục nước suối uống thì nghe tiếng lạo xạo như có ai ở quanh đây. Rừng núi rậm rạp. Chột dạ, o Lai ôm súng, lên đạn và quan sát chung quanh. Không thể tin vào mắt mình: một lính Mỹ to béo, da trắng, mũi khoằm, mắt lấm lét nép mình trên tảng đá. Ngay lập tức o Lai bắn ba phát đạn chỉ thiên. Đội tuần tra trong khu nghe tiếng súng báo động liền ập tới vây ráp. Đến đây tôi hỏi.
- Thế lúc đó o có sợ không, tên lính to thế kia mà?
- Kể cũng buồn cười, cả huyện lùng nó suốt đêm không thấy. Khi không nó lại hiện ra trước mặt mình. Lúc đầu bất ngờ nên tôi hơi giật mình, nhưng ngay sau đó bắn chỉ thiên luôn. Sợ chi mô! Đất mình, làng mình, súng trong tay, hắn có sợ thì sợ chứ tôi không sợ.
O lại trực tiếp dẫn giải tên phi công Mỹ về huyện, phía sau có sự hỗ trợ của tổ công tác. Phải mất hai tiếng xuyên rừng mới về đến huyện. Quả thực, o không biết họ chụp ảnh mình vào lúc nào. Mãi đến năm 1967, lúc đang ở bộ đội mới thấy một loại tem thư 12 xu có in hình mình dẫn giải lính Mỹ và ghi: "Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 5-8-1964 - 5-8-1967: 2.000 máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc".
Khi chúng tôi hỏi về viên phi công Mỹ, về cuộc hội ngộ năm 1995, chị cười:
- Robinson hả! Năm 1995, đạo diễn Lê Mạnh Thích làm phim "Cuộc hội ngộ sau 30 năm" có mời Robinson sang thăm, vẫn "lênh khênh" như ngày trước.
Lần sang Việt Nam năm 1995, Robinson có gửi lời hỏi thăm tới ông Đường, ông Thơm ở xã Phú Phong đã cho ăn cơm trong những ngày bị bắt ở Hương Khê. Cũng trong lần đó, Robinson mua bốn chiếc áo phông tặng cho mẹ con o Lai làm quà và o cũng tặng lại người tù binh cũ mấy chiếc nón bài thơ xứ Nghệ. Robinson kể với o Lai về cuộc sống tại Mỹ bây giờ: thất nghiệp, không nhà, không cửa phải tá túc ở nhà người bạn cũng là cựu chiến binh. Khi ra về Robinson xúc động thật lòng: "Tôi thèm có một gia đình bình dị, hạnh phúc như bà Lai".
Chuyện tình cảm động của hai người lính thương binh
Trong buổi trò chuyện với tôi, hai ông bà thường tiếp lời nhau rồi âu yếm nói với nhau những lời như: "Bố Đức Nhi Lai nhà tôi... Bố xem tôi nhớ có đúng không...".
Ông Nguyễn Anh Đức sinh năm 1945 tại xã Sơn Tây, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Năm 20 tuổi, ông lên đường nhập ngũ ở đơn vị pháo cao xạ 214 gần sông Gianh, quân khu 4. Suốt 10 năm từ 1965-1974, đơn vị của ông chiến đấu với máy bay địch trên sông Gianh để bảo vệ pháo, bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc thiết bị, giữ "huyết mạch" với miền nam. Nhiêu lần ông Đức bị thương nhưng vết thương nặng nhất là vào đầu năm 1972. Sau ngày giải phóng, với tấm thẻ thương binh hạng 2/4, ông Đức chuyển công tác về Xí nghiệp sửa chữa ô-tô Hà Tĩnh.
Mới nhận công tác được vài ngày thì vết thương cũ tái phát. Ông được chuyển vào bệnh viện huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh). Chứng tâm thần phân liệt đã làm ông nhiều lúc như lên cơn điên, đập phá cuồng loạn. Gia đình ở xa không có điều kiện chăm sóc, ông cần một cô y tá trực tiếp chăm sóc, phục vụ từ ăn uống, thuốc thang, nghỉ ngơi, giặt giũ... Và "o du kích nhỏ" ngày nào lại tình nguyện chăm sóc người bệnh đặc biệt đó. Lúc đó o Lai cũng là thương binh hạng 1/4, đang công tác tại bệnh viện huyện Thạch Hà. Trong suốt những ngày tháng ông vật vã cơn đau, o Lai chăm sóc ông tận tình từ bữa ăn, giấc ngủ bằng tất cả tình thương, lòng nhiệt tình của một người con gái.
Kể đến đây, ông Đức xúc động nói: "Có hôm ăn cơm, tôi nổi điên cầm cả tô cơm ném vào người Lai. Sau này nghe người chung quanh nói lại mới biết. Thế mà lúc đó Lai chẳng hề trách cứ gì tôi cả. Còn những chuyện như đang bình thường nổi cơn nắm tóc Lai hô "xung phong"... là chuyện thường".
Trong những ngày tháng nửa tỉnh, nửa mê như thế, hai người lính thương binh ấy đã thương mến nhau thật sự... Một tình yêu nảy nở và lớn dần theo năm tháng. Sau bốn tháng điều trị với sự chăm sóc của bàn tay "cô Tấm", bệnh tình anh Đức thuyên giảm. Đó cũng là lúc anh đón nhận niềm vui sướng vô bờ: Người nữ y tá nhận lời cầu hôn của anh. "Tôi không nghĩ một thương binh nặng, dở điên dở khùng như tôi mà lại có người thương và chấp nhận làm vợ".
Khi nhận lời lấy "bệnh nhân tâm thần" ấy, rất nhiều bạn bè, họ hàng đã không ủng hộ o Lai, cho là o cứ "rước lấy cái khổ vào thân". Duy chỉ có người mẹ của o Lai - bà cụ 70 tuổi đã cơm đùm áo vá, vượt 50 cây số đường rừng đến bệnh viện thăm con và xem mặt chàng rể. Trước khi về, cụ khóc nói với o Lai: "Con cố mà thương lấy nó". Mùa thu năm 1975, họ nên vợ nên chồng.
Cuộc sống vợ chồng họ có vô vàn khó khăn. Nhất là khi o Lai sinh đứa con đầu lòng, vết thương cũ của ông tái phát. Ông Đức nghẹn ngào kể: "Tôi nhớ đợt ấy Lai vừa sinh con đầu lòng thì tôi lên cơn đau. Lai phải gửi con cho hàng xóm, dìu tôi lên xe giữa đêm tối đến bệnh viện. Trời tối đường trơn, mới sinh sức yếu, Lai để tôi lên xe chỉ dắt không dám đi sợ ngã. Nghĩ lại khổ ơi là khổ!". Hai vợ chồng trải qua những tháng ngày khó khăn, phải đi xin quần áo cũ của họ hàng bạn bè trong cơ quan về sửa lại cho cả nhà mặc. Trong 20 năm, những đứa trẻ lần lượt ra đời trong vất vả lo âu và cả những tiếng cười hạnh phúc.
Trên mảnh đất "gió Lào cát trắng" ấy, những cây xương rồng đầy nghị lực dựa vào nhau đã đâm hoa. Gia đình "o du kích" đã khấm khá lên. Họ đã xây dựng được một ngôi nhà khang trang làm tổ ấm cho mình.