Tôi không bao giờ quên cái ngày mà lớp lớp cán bộ miền nam chúng tôi phải "dứt áo ra đi", lòng bịn rịn bước xuống tàu thủy để tập kết ra bắc theo Hiệp định Geneve 1954. Chia tay người đi kẻ ở, ai nấy đều thắc thỏm, giơ hai ngón tay hẹn nhau rằng hai năm sẽ đoàn tụ khi "Tổng tuyển cử" được thực hiện như trong văn bản của Hiệp định.
Về sau này tôi được biết, lúc đó có một người đã đề nghị với Hồ Chủ tịch và Trung ương Ðảng cho mình ở lại miền nam. Và trên chiếc xuồng, bí mật quay trở lại Cà Mau, người đó đã khóc, lòng quặn đau nỗi cảm thông với đồng bào đồng chí, vì người đó đã nhìn thấy trước rằng: Bà con mình, đồng chí mình giơ hai ngón tay hẹn nhau đầy lạc quan như vậy mà có biết đâu rằng cũng chỉ hai năm tới đây sẽ bị Mỹ - ngụy khủng bố dã man. Và sự thật đã diễn ra đúng như tiên liệu của Anh. Người đó là đồng chí Lê Duẩn, lúc đó là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Có thể nói, một trong những nỗi đau lớn của cách mạng Việt Nam là ngay sau Hiệp định Geneve 1954, đồng bào miền nam thì tay không đấu tranh đòi thi hành hiệp định, còn đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm thì dùng bạo lực thực hiện một đại chiến dịch đàn áp dã man những người kháng chiến cũ, những người dân muốn "Tổng tuyển cử" thi hành đúng Hiệp định Geneve, bản hiệp định mà những nội dung quan trọng nhất đã có sự thỏa thuận của các nước lớn. Quần chúng không còn con đường nào khác hơn là phải vùng lên, sống chết với Mỹ - Diệm. Tình thế cách mạng cho các cuộc khởi nghĩa từng phần đã chín muồi. (1).
Khí thế sục sôi cách mạng của quần chúng đòi hỏi có ngay một quyết sách của Ðảng, và việc anh quyết định ở lại miền nam là để góp phần đáp ứng kịp thời đòi hỏi đó. Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định bản chất của Mỹ - ngụy, anh đã cùng Xứ ủy Nam Bộ nhanh chóng nắm bắt tình hình, soạn thảo "Ðề cương cách mạng miền nam" (2). Tiếp đó, tháng 1-1959, Ðảng ta ra Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (Khóa II) mà anh là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị giao cho việc chỉ đạo soạn thảo. Bản Nghị quyết được hình thành trên cơ sở định hướng năm 1954 của Hồ Chủ tịch và của "Ðề cương cách mạng miền nam" (3).
Mùa hè năm 1957, Hồ Chủ tịch gọi đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội. Khi được gặp anh Lê Duẩn ở Bộ Quốc phòng, tôi đã sốt ruột hỏi anh là tại sao ta không đẩy nhanh, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên, thì anh nói rằng: "Ở trỏng (trong ấy), quân Mỹ - ngụy bắn giết, tàn sát dân mình quá thể. Sau một vài trận đầu ta đánh thử nghiệm có hiệu quả, chừ khắp miền nam đang rậm rịch chuẩn bị và nóng lòng chờ lệnh cho hoạt động vũ trang. Nhưng từ hôm ra miền bắc tới nay mới chỉ một vài tháng, mà tôi đã thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước nó phức tạp quá, và càng thấy rõ một điều rằng, dù mình rất muốn nhưng không thể nôn nóng được. Làm cách mạng phải biết chờ đợi. Vì đây là việc quá lớn, phải là Bộ Chính trị và Trung ương Ðảng quyết định nhiệm vụ của hai miền, của cả nước, thì mới làm được và làm mới có hiệu quả".
Là người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Ðảng ngày đêm suy nghĩ để vạch ra chủ trương và phương pháp, bước đi cho cách mạng miền nam sao cho giành thắng lợi mà ít tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Ðây là vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp. Bởi vì, lúc này đường lối "Cùng tồn tại hòa bình", giữ cách mạng trong thế thủ đang thắng thế trong phong trào cộng sản quốc tế.
Chính vì trong một bối cảnh như thế cho nên Hội nghị Trung ương lần thứ 15 phải họp thành hai đợt trong 7 tháng trời (4), đề án phải sửa chữa, bổ sung, soạn thảo gần 30 lần, chưa kể thời gian chuẩn bị đề án đã mất 2 năm ở miền bắc và hơn 3 năm ở miền nam. Khi văn bản Nghị quyết 15 ra đời, nó là sản phẩm trí tuệ của tập thể Ban Chấp hành Trung ương.
Mùa hè năm ngoái, khi anh Phạm Văn Xô bệnh nặng, tôi tới thăm anh tại Bệnh viện Thống Nhất, được anh cho biết: Anh và anh Phan Văn Ðáng được thay mặt Xứ ủy Nam Bộ ra dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng). Tháng 8-1957, hai anh ra tới Hà Nội, chờ đợi hết năm 1958, đến tháng 1-1959 mới được dự họp "thảo luận ở tổ". Sau hội nghị đợt 1 không thấy kết quả, các anh xin trở về nam.
Trước khi về, đồng chí Lê Duẩn bố trí cho hai anh lên chào Bác Hồ, anh Duẩn nhủ: "Cứ nói hết tình hình miền nam với Bác". Và, Hồ Chủ tịch đã căn dặn các anh: "Miền nam ở xa, Xứ ủy Nam Bộ phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để cho Mỹ - Diệm tiêu diệt cách mạng miền nam!". Các anh đã trao đổi hai ngày với anh Lê Duẩn trước khi về nam. Anh Lê Duẩn bảo: "Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!". Không khí cách mạng của cả miền nam đang hừng hực như cánh đồng cỏ khô, chỉ chờ một mồi lửa là bùng cháy...
Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền nam. Nghị quyết 15 thật sự là một nghị quyết về "Chuyển chiến lược" - Từ đấu tranh chính trị đơn thuần chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch, vận dụng và phát huy phương pháp cách mạng của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh mới; cách mạng miền nam chuyển từ thế thụ động sang thế chủ động tiến công. Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế cho nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền nam.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Ðảng đã rất tinh tường, sáng suốt khi giao cho anh trọng trách: Trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng miền nam kháng chiến chống thực dân Pháp sau Cách mạng Tháng 8-1945; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và Tổng Bí thư của Ðảng sau ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Bằng tư duy sáng tạo và phẩm chất lớn lao, anh đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả đó, anh đã thật sự xứng đáng với sự ủy thác to lớn đó. Tự giác tôi luyện mình trong cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam.
Trước kia tôi ở cương vị thấp cho nên không có điều kiện tiếp xúc nhiều với anh Lê Duẩn. Ðến tháng 11-1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng cách mạng của Quân khu đánh bại kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của địch, làm phá sản chiến lược bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn gọi ra bắc báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng: "Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực hiện quyết liệt ý đồ "Quốc gia dân tộc"; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và mâu thuẫn nhau nên chưa thực hiện được. Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ - từ quân chủ lực tới quân địa phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự... đông, đồ sộ nhưng không mạnh".
Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: "Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt. Nếu một khi nó đã hết hoang mang, ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về "Việt Nam hóa" của nó mà làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành "nội chiến"; mà đã như thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được". Nghiên cứu tình hình thì thấy rất rõ là từ giữa năm 1973 đến đầu 1974, địch đã bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch ở một số vùng ven đô.
Bởi vậy Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Ðảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ là sức mạnh. Ðây là một tư duy sáng suốt.
Nói rõ thêm về điểm này, tôi được biết, trong thiên hồi ức của mình, anh Phan Hàm, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến đã ghi lại những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn ngày 21 và 22 tháng 7 năm 1974 tại Ðồ Sơn, khi anh Hàm được cùng với các anh Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn là hai Phó Tổng tham mưu trưởng và anh Võ Quang Hồ, Phó cục trưởng Tác chiến lên báo cáo tình hình với đồng chí Lê Duẩn và nhận chỉ thị chuẩn bị kế hoạch quân sự cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền nam. Những lời anh Lê Duẩn nói ngoài văn bản mà anh Phan Hàm đã ghi lại một cách trung thực vì anh cho rằng "Nó có sức nặng hơn cả mấy binh đoàn" vì đó là tư duy sáng giá của một bộ óc lỗi lạc tại thời điểm quyết định của cách mạng.
Sau khi phân tích sâu sắc tình hình mọi mặt: Mỹ, các nước lớn, tình hình ta, chiến trường... đồng chí Lê Duẩn nói: "Hiện nay các nước muốn làm chủ Ðông-Nam Á chưa ai sẵn sàng cả. Mỹ thì đang rút ra, chưa phải là lúc vào lại. Cho nên, mặc dù bọn Mỹ ở bên này có kêu gào đến mấy chăng nữa, thì viện trợ cũng chỉ có chiều hướng giảm, không tăng; ngụy thì đang xuống dốc, còn ta thì đang ở thế thắng và đang tiến lên nhanh. Vì vậy tôi nghĩ rằng, nay thời cơ thuận lợi nhất để kết thúc cuộc chiến tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền nam. Nếu để chậm năm bảy năm nữa, họ mạnh lên thì sẽ phức tạp vô cùng cho ta. Từ tình hình trong nước và tình hình thế giới mà rút ra kết luận đó. Nhưng còn một vấn đề nữa là thắng như thế nào cho tốt? Ðể chậm thì không tốt đã đành; còn làm mà làm không tốt, trầy trật, cũng sẽ thêm phức tạp. Làm tốt là làm nhẹ nhàng, làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, làm trong một vài tháng, thì có lợi hơn là làm dây dưa, kéo dài ngày. Có như thế mới đạt được bất ngờ để không ai kịp trở tay; chứ nếu kéo dài ra thì các nước lớn sẽ tìm cách này, cách nọ để tăng thêm lực lượng, tiền của, để họ đối phó được với ta. Có làm được như thế không? Tôi nghĩ rằng cần thiết và nhất định sẽ làm được...".
Tôi cho rằng, ở vào thời khắc đó, chỉ có một con người "hơn hẳn người khác một cái đầu" thì mới có được những tư duy lỗi lạc như vậy!
Khi Cục Tác chiến và Bộ Tổng Tham mưu dự kiến kế hoạch tiến công giải phóng trong 4 năm, đồng chí Lê Duẩn đã nói: "Ta quyết tâm trong hai năm 1975-1976, động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền nam - bắc, đưa cuộc cách mạng của ta lên bước phát triển mới, cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân...".
Thế rồi, đồng chí Bí thư Thứ nhất đã chỉ rõ: "Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ. Phải chủ động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời và có biện pháp cụ thể lợi dụng, khoét sâu thêm.
Ðánh vào Sài Gòn như thế nào? Tất nhiên là phải chuẩn bị cho kỹ về quân sự. Các anh phải làm cho thật tốt. Tôi chỉ nói đến một khía cạnh thôi. Ðây là một thành phố có gần 4 triệu dân, có 10 vạn cảnh sát, ghê gớm lắm. Nhưng không phải chỉ đem lực lượng quân sự giữa hai bên ra mà so sánh, mà phải thấy lực lượng của quần chúng. Lực lượng này thì tiềm tàng, bây giờ ta phải ra sức phát triển, nhưng sức mạnh của nó thì không ai có thể lường hết được. Nó còn mạnh gấp năm gấp mười lần sức mạnh quân sự.
Ðến một lúc nào đó, tình thế xoay chuyển, thì chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng này có thể làm tê liệt tất cả: Nhà máy sẽ không còn là pháo đài hay lô cốt của địch, mà sẽ trở thành những ổ đề kháng, nơi tập trung lực lượng của giai cấp công nhân; đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến lũy gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây quân địch, tiêu diệt quân thù. Mà chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Ðà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ... nơi nào cũng làm được như thế cả...".
Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Ðại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra đúng như những ý kiến tiên liệu của anh.
Ngay như việc chọn mục tiêu đột phá mở màn chiến dịch, lúc đầu, sau khi đã phân tích tình hình mọi mặt, Cục Tác chiến và Bộ Tổng Tham mưu đã chọn Ðức Lập; cán bộ của Mặt trận Tây Nguyên cũng nhất trí như vậy vì nó "vừa sức của ta". Nhưng ý tưởng của anh Lê Duẩn là phải chọn một mục tiêu sao cho khi ta đánh sẽ làm rung chuyển cả chiến trường. Và, anh đã chỉ đạo đánh Buôn Mê Thuột. Ðòn đánh Buôn Mê Thuột đã thôi động vô cùng. Thay vì quân ngụy thực hiện lệnh của Nguyễn Văn Thiệu rút bỏ Tây Nguyên về phòng thủ miền duyên hải đã biến thành một cuộc tháo chạy trong hoảng loạn và vỡ trận. Thời cơ lớn đã thật sự òa đến. Quân và dân ta trên thế thượng phong, hoàn thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền nam trong 55 ngày, đúng như ý tưởng chỉ đạo của anh và Bộ Chính trị.
Trong bài viết "Kỷ niệm khó quên về anh Ba Duẩn trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975", anh Lê Hữu Ðức, Cục trưởng Cục Tác chiến, cho biết: "...11 giờ đêm (29-4). Anh Văn (Võ Nguyên Giáp) nhắc tôi đọc bức điện của anh Lê Trọng Tấn cho Anh Ba nghe. Sau khi Anh Ba nghe xong bức điện, anh Văn nói với Anh Ba: "Theo điện báo cáo của anh Tấn, đề nghị Anh Ba cho đánh". Anh Ba nói ngay: "Ðánh! Ðánh! Cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này, cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển, càng thuận lợi cho toàn chiến dịch".
Anh Văn hỏi thêm Anh Ba: "Ðiện trả lời ký tên anh chứ?". Anh Ba nói: "Không, anh là chỉ huy quân đội, cứ ký tên anh thôi". Sau một thoáng, Anh Ba nói thêm: "Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với Anh Ba và Anh Ba hoàn toàn nhất trí"... Và tôi được biết, bức điện ngày 7-4-1975 đã đi vào lịch sử "Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa!..." cũng ra đời trong một bối cảnh tương tự. Ðồng chí Bộ trưởng Quốc phòng đã thực hiện theo sự chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, thể hiện ý chí của Ðảng và Nhà nước ta ở thời khắc lịch sử có một không hai đó.
Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Ðảng ta và Hồ Chủ tịch, anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió, thác ghềnh cập bến vinh quang. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, anh Lê Duẩn đã có công rất lớn. Phẩm chất và di sản của anh để lại, chúng ta còn phải nghiên cứu học hỏi để dần dần hiểu được hết anh.
Chúng ta hãy hình dung lại, sau ngày miền nam giải phóng, nền kinh tế của ta nghèo nàn và lạc hậu như thế nào. Sau giải phóng 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới. Khói súng chiến tranh chưa tan hết, hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh chưa khắc phục được bao nhiêu. Chúng ta bị Mỹ và các nước thân Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên Xô và các nước XHCN Ðông Âu đang mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn tới sụp đổ. Theo đó, khối SEP, nguồn viện trợ duy nhất của ta cạn dần rồi mất hẳn. Nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát tới 774%.
Trong khi đó, Liên Xô rơi vào khủng hoảng toàn diện, lạm phát còn nặng hơn ta nhiều. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã như thế, tôi cho rằng, Ðảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chèo chống như vậy, giữ cho không bị sụp đổ, tuy có gian nan, vất vả nhưng vẫn trụ vững, dần ổn định và tìm cách đi lên là một kỳ tích đáng tự hào.
Tại Ðại hội lần thứ V của Ðảng (tháng 3-1982), trong Báo cáo chính trị do anh trình bày, đã nghiêm khắc phê bình hai loại nhận thức: Một là, "chủ quan nóng vội", đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất... Ðưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Hai là, "bảo thủ, trì trệ", "duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; chậm thay đổi các chính sách, chế độ nên đã kìm hãm sản xuất".
Ðại hội quyết định "Ðổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ... Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa rất coi trọng giá trị và quy luật giá trị". Như vậy, ngay từ Ðại hội V, Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư Ðảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Hay nói một cách khác là "Tư duy về đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước" đã xuất hiện từ trước thềm Ðại hội V.
Trao đổi với mọi người, anh Lê Duẩn vẫn thường nói một mệnh đề mà anh hằng tâm đắc: "Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý". Lịch sử về đổi mới nông nghiệp đã minh chứng: Bắt đầu từ tư duy "Khoán hộ" của anh Kim Ngọc, 15 năm sau thì xuất hiện "Khoán chui", "Khoán sản" của Hải Phòng đã làm cơ sở cho Chỉ thị 100 của Ban Bí thư tháng 1-1981 và Nghị quyết "Khoán 10" (tháng 4-1988) của Bộ Chính trị khóa VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất bung ra, lương thực bung ra.
Nếu như trước đó, khi anh Lê Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn, nhiều người hoài nghi, thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản về lương thực, đảm bảo an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu - Một sự kiện "như mơ giữa ban ngày".
Tôi còn nhớ, giai đoạn nhiệm kỳ Ðại hội IV và V, khi anh Lê Duẩn và Bộ Chính trị chủ trương tập trung đầu tư cho một số công trình trọng điểm như: Thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, rồi xi-măng Hoàng Thạch, thủy lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long, v.v... thì có khá nhiều ý kiến chỉ trích: Ðời sống nhân dân đang khó khăn thiếu thốn, hàng tiêu dùng đang khan hiếm nghiêm trọng, sao không đầu tư làm xà-phòng, thuốc đánh răng cho dân dùng, vải cho dân mặc, mà lại dồn hết tiền của vào điện và xi-măng?... Còn về dầu khí? Lúc đó, bị lôi kéo vào chiến dịch cấm vận, các công ty kinh doanh dầu khí của một số nước đang hợp tác với ta liền chịu bồi thường để hủy bỏ hợp đồng và rút lui.
Sau khi cân nhắc, cuối cùng Ðảng và Nhà nước ta quyết định mời Liên Xô vào hợp tác liên doanh, mặc dù khả năng và kinh nghiệm thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi của Liên Xô không bằng các nước khác. Ðể thực hiện việc này, anh Lê Duẩn đã dẫn đầu đoàn đại biểu Ðảng và Chính phủ ta thăm chính thức Liên Xô. Kết quả là tại điện Krem-li, dưới sự chứng kiến của hai đồng chí Tổng Bí thư, Hiệp định về việc Liên Xô giúp Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa nam Việt Nam và thành lập Xí nghiệp Liên doanh Việt-Xô được ký kết.
Hai đồng chí Nguyễn Lam và Bai-ba-cốp là Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch của hai Chính phủ đã ký hiệp định. Và, Việt-Xô Petro trở thành mốc son lịch sử ra đời của ngành Dầu khí Việt Nam. Như vậy, sự thật đã trả lời là anh đúng? Công cuộc Ðổi mới đất nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay đã và đang thành công là nhờ có cơ sở nền tảng của những công trình mà thế hệ lãnh đạo của anh đã lo trước một bước.
Bởi vậy, tôi cho rằng, chúng ta thường nói Ðại hội Ðảng VI là mốc son của công cuộc Ðổi mới đất nước. Ðiều đó đúng. Nhưng không có nghĩa là đến Ðại hội VI thì mới có Ðổi mới, mà ý tưởng này đã manh nha từ Ðại hội IV, tới Ðại hội V nó rõ dần ra, và tới trước thềm Ðại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt (nhận thức tư tưởng, kinh tế - xã hội...) đã chín muồi cho việc Ðảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đầu năm 1947 ở Ðồng Tháp Mười. Anh chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Ðảng cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức đảng các cấp trong toàn Xứ ủy để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách đang diễn ra.
Từ hội nghị này, anh em Nam Bộ đặt cho anh cái biệt hiệu là "Ông 200 bougies" - ý nói tư duy mẫn tuệ sáng như ngọn đèn hai trăm bougies. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, tôi có nhiều lần từ chiến trường được ra bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện gặp anh nhiều hơn. Không phải ở anh, cái gì tôi cũng tán thành 100%, nhưng có hai điểm thì tôi luôn luôn nhất trí:
Một là, quyết tâm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Ngày đêm anh đau đáu suy nghĩ việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản "Ðề cương cách mạng miền Nam" ra bắc. Ðó là một cơ sở để BCH T.Ư Ðảng ta đề ra Nghị quyết 15, tạo nên bước tiến nhảy vọt cho cách mạng miền nam. Năm 1972, diễn ra nhiều sự kiện gây khó khăn lớn đối với cách mạng Việt Nam. Một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị - Bộ Chỉ huy tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Và, quyết định giải phóng miền nam trong hai năm 1975-1976, tiến tới giải phóng trước tháng 5-1975 khi thời cơ đã tới. Ðây là một quyết định sáng suốt. Tôi cho rằng, quyết định này xuất phát từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng.
Hai là, anh luôn luôn là một con người đôn hậu. Sự đôn hậu không chỉ thể hiện khi anh đưa ra những chủ trương, chính sách để cải thiện, mang lại cuộc sống cho người dân ngày càng tốt hơn, mà còn cả trong tiếp xúc, ứng xử đối với anh em, đồng chí, với bạn bè quốc tế.
Hôm nay, nhân kỷ niệm 20 năm Ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về anh, một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo không ngừng của cách mạng Việt Nam, một Người Anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn!
___________________
(1) Lịch sử Ðảng CSVN - Nxb Chính trị quốc gia - Tập 2 - Hà Nội 1995 - Trang 98.
(2) Bắt đầu soạn thảo từ cuối 1955 ở Bến Tre, hoàn thành tháng 8-1956 ở Sài Gòn. Ðề cương đã được các Hội nghị Bí thư Tỉnh ủy Miền Tây góp ý kiến, sau đó đã thảo luận kỹ trong cuộc Hội nghị Xứ ủy mở rộng cuối năm 1956 đầu 1957 ở Phnôm-pênh.
(3) Văn bản Cục Lưu trữ BCHT.Ư số 83-TB/T.Ư ngày 24-7-1997: "Thông báo về các kết luận Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành trung ương Ðảng khóa VIII" (Về Nghị quyết 15 BCHT.Ư khóa II và về một số điểm trong Di chúc của Hồ Chủ tịch).
(4) Ðợt 1: Từ ngày 12 đến 22 tháng 1 năm 1959. Ðợt 2: Từ ngày 10 đến 15 tháng 7 năm 1959 (Tài liệu "Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCHT.Ư Ðảng khóa II được hình thành như thế nào" - Tài liệu tổng hợp từ các văn kiện và nhân chứng lịch sử - Lưu trữ Văn phòng trung ương Ðảng).