Xứ Lạng có câu ca dao:
"Nhất vui Bầu Quán Chi Lăng
Nhì vui Tô Thị, Ðồng Ðăng, Kỳ Lừa".
Ngược dòng lịch sử, Chi Lăng (Lạng Sơn) có truyền thống lịch sử rất oai hùng. Trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, vào thế kỷ thứ X, Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập chính thức được xác lập. Cũng từ đó, tên gọi Chi Lăng, mảnh đất Chi Lăng được nói tới như một tấm cửa lim vững chắc ở cửa ngõ phía bắc của Tổ quốc. Nơi đây có Ải Chi Lăng vô cùng hiểm trở. Sử sách Trung Quốc có ghi: "Chi Lăng là cổ họng của Giao Chỉ, là nơi hiểm yếu của đại quân ra vào, có "Quỷ môn quan, thập nhân khứ, nhất nhân hoàn", (nghĩa là mười người đi, một người về). Trong tâm trí mỗi người Việt Nam, nhắc đến Chi Lăng là niềm tự hào, kiêu hãnh dân tộc. Bởi qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, thời nào Chi Lăng cũng ghi những chiến công vang dội, lẫy lừng.
Ðến với mảnh đất Chi Lăng, ở đâu ta cũng bắt gặp những truyền thuyết, những dấu tích của một thời lịch sử oanh liệt. Khu di tích lịch sử Chi Lăng, là một quần thể di tích ngoài trời rộng lớn với diện tích khoảng 4 km2, chung quanh bao bọc bởi những dãy núi đá cao trùng điệp khép kín, dựng đứng như một bức trường thành. Phía tây là dãy Cai Kinh (mang tên người anh hùng Hoàng Ðình Kinh, lãnh đạo nhân dân làm cuộc khởi nghĩa, đầu tiên chống thực dân Pháp, trên đất Lạng Sơn).
Phía đông là dãy núi Thái Hòa và Bảo Ðài. Hai vòng cung kép lại ở hai đầu, với chiều dài khoảng 4 km, chiều rộng khoảng 1 km; phía bắc gọi là Quỷ Môn quan, phía nam là chân núi Mã Yên. Ở giữa là dòng sông Thương hiền hòa, song song với quốc lộ 1A chạy qua lòng ải. Quần thể khu di tích Chi Lăng gồm 52 điểm di tích, (chủ yếu là những địa danh gắn với những chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống quân Minh), được công nhận, xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1962. Hiện nay, Chi Lăng trở thành huyện có số lượng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, được xếp hạng nhiều nhất của tỉnh Lạng Sơn.
Thiên nhiên không chỉ ưu đãi cho Chi Lăng về sông suối, núi non kỳ vĩ mà trong quá trình trường tồn và phát triển, bằng ý chí, nghị lực, tự lập tự cường, những năm qua, Ðảng bộ và nhân dân các dân tộc Chi Lăng kế thừa truyền thống lịch sử vươn lên xây dựng cuộc sống mới. Ðặc biệt là từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, Chi Lăng đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, với những con số đầy ấn tượng. Cụ thể là đến nay có hơn 97% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ đói, nghèo còn 20%, thu nhập bình quân đầu người hơn 8,4 triệu đồng/năm...
Xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tạo động lực đi lên, vì vậy, ở Chi Lăng đã hình thành rõ nét ba vùng kinh tế trọng điểm, trở thành những vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Cụ thể là vùng kinh tế số một gồm: các xã nằm dọc quốc lộ 1A (Lạng Sơn - Hà Nội) đi lên bằng việc phát triển các loại cây ăn quả đặc sản, du lịch và dịch vụ. Xác định đúng thế mạnh của từng khu vực, nên nhiều năm qua bà con ở khu vực này đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Phát triển các loại cây trồng mang tính đặc sản như: na dai, măng ớt, mác mật...
Hằng năm vào tháng bảy, tháng tám, dọc hai ven quốc lộ 1A, bà con các dân tộc ở các xã: Chi Lăng, Quang Lang, Mai Sao, thị trấn Ðồng Mỏ, nhộn nhịp với mùa thu hoạch na. Na dai Chi Lăng béo mập, ngọt lịm, ăn một lần nhớ mãi. Lúc đầu chỉ một vài nhà ở thôn Lăng Ðồn, xã Chi Lăng trồng thử, chỉ dùng để ăn, không ngờ cây na lại bén duyên với mảnh đất này, vậy chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây, năm xã dọc khu di tích lịch sử Chi Lăng đã trồng hơn 1.600 ha cây na. Thật kỳ lạ, cây na chỉ trồng được và cho quả ngọt ở vùng núi đá vôi, nơi khác trồng đều không cho quả ngọt.
Gia đình anh Triệu Vinh ở thôn Minh Hòa, thị trấn Chi Lăng cũng như nhiều hộ khác, có thu nhập từ 50 đến 100 triệu đồng mỗi năm từ cây na. Ngoài cây na, bà con ở khu vực này còn tự chế biến măng ớt ngâm với quả mác mật, nay trở thành thứ hàng hóa nổi tiếng được bày bán dọc quốc lộ 1A. Không chỉ có cây na, bà con ở vùng này còn tận dụng đất đồi trồng các loại cây ăn quả khác như: hồng, thuốc lá, khoai tây, dưa hấu, ngô lai... Nên mùa nào cũng vậy, khi đi qua vùng đất Ải Chi Lăng lúc nào cũng thấy một mầu xanh của các loại hoa trái.
Vùng kinh tế thứ hai ở phía đông của huyện lại là một vùng đồi núi trập trùng, bao trùm cả những rừng cây xanh ngắt. Ðó là các xã: Quan Sơn, Hữu Kiên, Lâm Sơn, Chiến Thắng... nơi đây có đến 70 đến 80% diện tích là đồi cỏ, rất thích hợp cho phát triển chăn nuôi đại gia súc. Thấy được tiềm năng đó, từ những năm 1999, huyện đã quyết định vay nguồn vốn ODA hơn 40 tỷ đồng mở đường huyết mạch, khai thông đến với các xã vùng cao này.
Bí thư Ðảng ủy xã Hữu Kiên, Nông Quang Ðạm không giấu niềm vui nói: Nhờ có con đường liên xã, nhiều hộ đã bán được trâu, bò, lợn, gà... xây được nhà, mua được ti-vi. Trước đây dù có hàng trăm con trâu, ngựa, bò cũng chỉ để kéo cày, mổ thịt ăn, vì không có con đường mọi thứ đều qua đôi vai. Nay có gần 400 hộ (chiếm 90%) đã có cuộc sống khấm khá hơn xưa. Nhiều hộ đã biết vay tiền ngân hàng để phát triển đàn bò, trồng các loại cây lâm nghiệp...
Vùng kinh tế thứ ba của huyện nằm ở phía tây của huyện, nơi có dãy núi Cai Kinh bao bọc, rất thích hợp cho việc trồng các loại cây ăn quả, hồng, hồi, nhãn; cây công nghiệp ngắn ngày như: ngô lai, lạc, đỗ tương, thuốc lá... Hầu hết các giống cây trồng đều được bà con đưa giống mới vào sản xuất nên đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần ổn định đời sống.
Những đổi thay ở mảnh đất Chi Lăng còn phải kể đến là bằng nguồn vốn của Nhà nước cùng với sức dân đóng góp, nên đến nay 100% xã đều có đường ô-tô đến trung tâm xã; các đường liên thôn, bản được bê-tông hóa. Nhờ có những con đường nên nhiều vùng quê đã có nhiều khởi sắc. Con đường không chỉ tạo nên sự giao lưu cho kinh tế phát triển mà còn có sự giao lưu về văn hóa, xóa bỏ khoảng cách giữa các vùng quê.