ND- Hồi chiến dịch Ðiện Biên Phủ, tôi đảm nhiệm chức vụ Tiểu đội trưởng tiểu đội tiếp lương của Tiểu đoàn 394, thuộc Trung đoàn pháo cao xạ 367.
Trong hoàn cảnh bom đạn địch ác liệt, lại thêm thời gian chiến dịch kéo dài, việc tiếp tế lương thực, thực phẩm từ hậu phương lên mặt trận gặp rất nhiều khó khăn. Thực phẩm rất khan hiếm.
Là bộ phận chuyên lo khâu ăn uống cho bộ đội, chúng tôi ngày đêm lo lắng làm sao hoàn thành được nhiệm vụ. Nghĩ đến anh em ngoài trận địa sống kham khổ, trong mưa bom bão đạn vẫn ngẩng cao đầu chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay địch, chúng tôi như được cổ vũ thêm quyết tâm làm tròn trách nhiệm nuôi quân của mình.
Cùng với bộ phận hậu cần của tiểu đoàn bộ và của các đại đội, anh em chúng tôi đã không quản gian lao, vất vả, mặc cho nắng mưa, gió rét, chia nhau lên tận các bản làng xa để mua, đổi thực phẩm, hoặc len lỏi vào những cánh rừng sâu, tìm hái từng búp măng, từng bắp chuối, từng ngọn lá rau rừng. Bữa ăn
của cán bộ, chiến sĩ ở ngoài Sở chỉ huy tiểu đoàn, cũng như của pháo thủ trên các trận địa, nhờ đó được cải thiện một đôi phần. Nhiều lần, Chính trị viên tiểu đoàn gọi điện xuống biểu dương, làm anh em chúng tôi rất phấn khởi.
Một hôm, tôi còn nhớ rõ, đó là ngày 17-4-1954, vào khoảng 8 giờ tối, tiểu đội chúng tôi nhận được mội gói kẹo và một bao thuốc lá, quà của hậu phương gửi tặng các chiến sĩ Ðiện Biên. Ðang vui vẻ chia nhau từng chiếc kẹo, từng điếu thuốc, thì chúng tôi nhận được lệnh của tiểu đoàn: Ðồng chí Lâm (tức là tôi) và đồng chí Tiệp, tiểu đội phó, mang theo một tiểu liên, lên ngay Sở chỉ huy tiểu đoàn. Cuộc "liên hoan" do đó tạm dừng lại.
Tiểu đoàn trưởng Trịnh Duy Hậu thường ngày rất nghiêm, nhưng tối nay vừa nhìn thấy chúng tôi, anh đã tươi cười:
- Giao cho cánh tiếp lương các cậu một nhiệm vụ đặc biệt, xuống Ðại đội 828 nhận một tù binh Pháp, đưa về chỗ trú quân canh giữ cẩn thận. Chờ khi nào có người của trạm tiếp nhận tù hàng binh đến thì bàn giao cho họ.
Hai chúng tôi liền lao nhanh xuống trận địa, áp giải người tù binh Pháp về chỗ trú quân của chúng tôi ở một góc rừng. Lúc này, máy bay địch đến ném bom và thả dù. Bom với đạn pháo nổ ầm ầm, rung chuyển mặt đất. Trên trời từng loạt đạn pháo cao xạ của tiểu đoàn chúng tôi vút lên như pháo hoa. Người tù binh có vẻ sợ hãi, đôi vai rung lên. Chúng tôi nhường cho anh ta một căn hầm. Một chiến sĩ mang cơm và thịt trâu kho đến cho tù binh. Anh ta nói lời cảm ơn rồi xúc ăn ngấu nghiến.
Ðợt ném bom qua đi, không gian trở lại yên tĩnh. Cả tiểu đội chúng tôi lên miệng hầm, bắt đầu cuộc "liên hoan", vui vẻ nhai kẹo và hút thuốc. Ðêm nay lại đúng là đêm rằm tháng hai âm lịch, tuy không đèn nhưng nhờ trăng sáng nên chúng tôi vẫn nhìn rõ mặt nhau. Niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt mỗi người.
Bất giác tôi nhìn sang người tù binh, bắt gặp ánh mắt của anh ta đang nhìn chằm chằm vào điếu thuốc trên miệng tôi. Anh ta nuốt nước bọt có vẻ thèm thuồng lắm. Ðôi môi anh ta chúm lại một cách khổ sở. Tôi vội bẻ đôi điếu thuốc đang hút, đưa cho anh ta một nửa. Anh ta liền ngồi thẳng lên, đưa cả hai tay ra đón, ấp úng nói hai tiếng "méc-xi" (cảm ơn) rồi đưa lên miệng hút ngon lành. Nhìn anh ta rít thuốc và nhả khói, tôi có cảm giác như lâu lắm anh ta không được hút thuốc lá.
Anh Tiệp đùa vui, giới thiệu:
- C'est monsieur capitaine! (Ðây là ngài quan ba!)
Người tù binh liền khom người đứng lên:
- Merci capitaine! (Cảm ơn ngài quan ba!), rồi ngồi xuống, mắt liếc nhìn sang anh chiến sĩ đang cầm súng đứng gác.
Thấy thái độ của chúng tôi vui vẻ, cởi mở, anh ta có vẻ yên tâm, nét mặt không lo âu, tư lự như trước. Lát sau anh ta cởi chiếc đồng hồ đeo tay, chìa ra phía tôi. Tôi lắc đầu, xua tay:
- Non (Không!).
Tôi bảo một chiến sĩ lấy chăn cho anh ta đắp. Còn anh em chúng tôi suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau luân phiên nhau canh gác, không rời người tù binh một phút.
Thỉnh thoảng đi qua, tôi dừng lại, trò chuyện với anh ta đôi ba câu bằng vốn liếng tiếng Pháp ít ỏi. Ðến xế chiều, một cán bộ và một chiến sĩ của trạm tiếp nhận tù hàng binh do Mặt trận phái xuống, đến nhận anh ta, đưa về phía sau. Khi chia tay chúng tôi, anh ta nắm tay tôi thật chặt, đôi mắt anh nhìn thẳng vào mắt tôi, rưng rưng...
Năm mươi năm trôi qua, tưởng rằng nhiều chuyện đã đi vào quên lãng. Tình cờ mới đây, đến nhà một người bạn chiến đấu cũ, tôi đã đọc một tờ báo đã nhàu nát, tờ "Cựu Chiến binh Việt Nam", số tháng 5-1992, có bài viết về một người lính Pháp, tên là Rôn-phơ Ðô-len, gốc Ðức, từng là tù binh ở Ðiện Biên Phủ, vừa qua trong chuyến du lịch Việt Nam, trở lại chiến trường xưa.
Rôn-phơ Ðô-len kể cho phóng viên nội dung vắn tắt:
"Giữa tháng 4-1954 trong lúc những trận đánh giằng co đang diễn ra ác liệt trên những ngọn đồi phía đông: Eliane 2, Eliane 1 (tức đồi A1, C1), Rôn-phơ Ðô-len, chỉ huy đội biệt kích Com-măng-đô (Commando), thuộc tiểu đoàn 3, trung đội 3 bộ binh lê dương (3/3 REI), đóng tại Isabelle (Hồng Cúm), được lệnh "sục sạo ra phía tây để thăm dò lực lượng Việt Minh"...
"Vừa ra khỏi căn cứ chưa đầy một km, toàn đội biệt kích chúng tôi rơi vào ổ phục kích của đối phương. Toàn đội Com-măng-đô bị tiêu diệt, riêng tôi may mắn thoát chết, chỉ bị thương nhẹ và bị bắt làm tù binh.
Trở lại Ðiện Biên Phủ lần này, tôi thăm lại Hồng Cúm, đã khác xưa quá nhiều, lên thăm đồi Eliane 2, qua cầu Mường Thanh, xem hầm tướng Ðờ Ca-xtơ-ri được phục chế gần như nguyên vẹn. Tại Hồng Cúm, tôi đứng lặng hồi lâu, dành nhiều phút trầm tư về những kỷ niệm đã qua cách đây mấy chục năm...".
Rôn-phơ Ðô-len tâm sự:
"Bản thân tôi có rất nhiều thiện cảm với người dân Việt Nam và bộ đội Việt Minh. Họ có lòng yêu nước chân chính. Họ đi theo Cụ Hồ và kiên cường chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam. Họ đối xử nhân đạo với tù binh. Ngay lần đầu bị bắt, tôi gặp một sĩ quan trẻ Việt Minh, nói khá thạo tiếng Pháp, đã chia cho tôi nửa điếu thuốc lá ông đang hút. Ðó là mẩu thuốc lá ngon nhất đời mà tôi nhớ mãi. Cho tới nay, tôi vẫn mong gặp lại vị sĩ quan trẻ Việt Minh đã chia cho tôi nửa điếu thuốc trong một buổi tối giữa tháng tư năm ấy".
Ðọc xong bài báo nói trên, lòng tôi bỗng xốn xang khó tả. Kỷ niệm xưa lại hiện về. Phải chăng, Rôn-phơ Ðô-len chính là người tù binh mà chúng tôi đã canh giữ tại góc rừng năm xưa ở Ðiện Biên Phủ?
Vũ Ngọc Lâm
Nguyên Tiểu đội trưởng tiếp lương,
Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367