Theo công văn này, không gia hạn, cấp mới, cho tất cả các doanh nghiệp khai thác vàng sa khoáng trên địa bàn toàn tỉnh, yêu cầu các đơn vị này phải đóng cửa mỏ trước ngày 29-2 -2012. Sở TN-MT tỉnh có nhiệm vụ thông báo tới các doanh nghiệp thực hiện. UBND các huyện, thị có nhiệm vụ kiểm tra, giải tỏa hoạt động khai thác vàng sa khoáng…
Nội dung của công văn này còn nhấn mạnh, sau ngày 29-2: Nếu huyện, thị nào để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, thị đó chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và trước pháp luật... Thế nhưng trong khi thực hiện, thì hiện thực ra sao ?
Khai thác vàng sa khoáng: “Tặc” hay không “tặc”?
Sáng 24-4-2012, lễ ngăn sông đợt 1 thủy điện Lai Châu đã diễn ra tại xã Nậm Hàng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Khác với những “vụ” ngăn sông của thủy điện khác thường ngăn sông vào cuối mùa khô, tháng 12 hoặc tháng giêng, thủy điện Lai Châu lại ngăn sông vào đầu mùa mưa. Bởi nó phải “rình” mực nước của thủy điện Sơn La hạ tới mức thấp nhất. Như các lãnh đạo công trường nói rằng thì đây là thời điểm “cưỡi lưng hổ”, bởi chỉ hơn một tháng sau, ngày 31 – 5 là bắt đầu phải chống lũ. Hơn 40 ngày sau lễ ngăn sông, thủy điện Lai Châu phải đổ thêm 700.000 khối đê quai bê – tông để ngăn lũ. Nếu không thì thành quả ngăn sông sẽ bay biến trước lũ dữ sông Đà…
Thời gian trên, các tầu khai thác vàng sa khoáng trên sông Đà từ thủy điện Lai Châu vào tới Kẻng Mỏ (đầu nguồn sông Đà bên phía Việt Nam giáp biên giới Trung Quốc) cũng “ra sức hoạt động” để “gỡ vốn”. Sau lệnh cấm hạn chót ngày 29 – 2, tới cả tháng 3, tháng 4, rồi tháng 5 cho đến tận nửa đầu tháng 6, chỉ gần 150km đường sông mà đếm thấy có tới 46 tầu vàng, 35 máy ủi liên tục hoạt động cần mẫn. Mới đầu sau lệnh cấm thì còn làm ban đêm, sau thì làm cả ban ngày. Những tầu vàng dưới sông như những con dũi đất, múc đá sỏi dưới sông lên sàng, rồi đùn ra những trái núi nhỏ đá sỏi sau sàng làm lở lói, lệch lạc hết cả dòng chảy sông Đà (nhiều nhất là khu vực Mường Tè xã, cách thị trấn Mường Tè 40km). Điều này sẽ là cực kỳ nguy hiểm khi lũ về, nguy hiểm cả đến thủy điện Lai Châu vừa ngăn sông còn mong manh. Ai cũng biết vậy, chưa kể số chất hóa học như xyanua, thủy ngân dùng để làm vàng cũng bị đổ tuột xuống sông… Trong quãng thời gian này, một loạt báo chí địa phương và trung ương lên tiếng tố cáo hiện tượng khai thác vàng sa khoáng vẫn ngang nhiên tiến hành sau lệnh cấm của tỉnh là “mổ bụng” và “đầu độc” sông Đà và gọi những tầu vàng trên là “vàng tặc”.
(Về chữ “vàng tặc” để chỉ những tầu khai thác vàng này, tôi thấy không đồng ý lắm, bởi nó không đúng. Vì khi các doanh nghiệp làm vàng tiến hành khai thác, thì họ đều được cấp phép của chính quyền hẳn hoi đấy chứ. Nhưng chỉ vì sự lơ là của cấp quản lý trực tiếp trên địa bàn nên những việc như trách nhiệm hoàn nguyên dòng chảy, kiểm soát chất hóa học thải xuống sông bị bỏ qua nên sông suối mới tan hoang. Còn đến khi có lệnh cấm mà vẫn hoạt động, thì đúng là trở thành “tặc” thật. Nhưng nếu gọi là “tặc” thì phải bao gồm cả những người “bảo kê” cho họ hoạt động tiếp. Vì một tầu vàng nặng từ 70 – 100 tấn sắt, nằm lù lù tại chỗ chạy đi đâu được. Nếu không có ai buông lỏng quản lý, “bảo kê” cho họ hoạt động, thì liệu họ có hoạt động được chăng ?)
Hiện tượng “vàng tặc” vẫn hoạt động sau khi có lệnh cấm từ ngày 29 – 2 này. Thì nhiều nhất vẫn là ở huyện Mường Tè, và lác đác còn có cả ở Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ trên các dòng nhánh Nậm Mu, Nậm Na (hai huyện Than Uyên, Tân Uyên giải quyết được triệt để, yêu cầu được chủ doanh nghiệp tháo dỡ hẳn tầu vàng, bởi chính quyền nơi đây nghiêm túc đã đành, nhưng cũng bởi số tầu vàng ở đây không nhiều).
Chính quyền tỉnh Lai Châu – quyết liệt không chỉ bằng văn bản…
Phản hồi thông tin báo chí và sau khi tiến hành kiểm tra, UBND tỉnh Lai Châu quyết định ra nghiêm lệnh bằng văn bản hỏa tốc số 566 ngày 25 – 5 – 2012. Văn bản này do đích thân chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Khắc Chử ký, gửi UBND các huyện trong địa bàn về việc tăng cường giải tỏa dứt điểm các khu vực khai thác vàng sa khoáng trái phép trên địa bàn tỉnh. Nội dung văn bản này yêu cầu phối hợp các lực lượng chức năng của UBND huyện, công an, biên phòng để giải tỏa các địa điểm khai thác vàng sa khoáng trái phép, di dời các phương tiện khai thác ra khỏi địa bàn, tịch thu phương tiện vi phạm, xử lý nghiêm, có thể khởi tố truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tổ chức, cá nhân cố tình không chấp hành…
Thực hiện lệnh này, UBND huyện Mường Tè đã thành lập Đoàn giải tỏa do ông Nguyễn Xuân Trường – phó chủ tịch UBND huyện làm Trưởng đoàn, tiến hành phối hợp các lực lượng trước hết đi thu giữ máy nổ, tháo gầu và cần gầu tại các tầu vàng. Sau đó sẽ yêu cầu tiến hành di chuyển máy ủi và cắt, phá dỡ các tầu vàng trên địa phận huyện Mường Tè.
Theo báo cáo qua điện thoại của ông Trường với lãnh đạo tỉnh mà trực tiếp phóng viên được nghe và ghi âm lại ngày 7 – 6 (người gọi điện thoại không biết là có phóng viên cùng nghe). Trong buổi họp yêu cầu các doanh nghiệp ngày 6 – 6 cam kết phá dỡ di dời do ông Trường làm chủ tọa, thì doanh nghiệp Khoa Vạn Long (doanh nghiệp nhiều tầu nhất, có tới 32 tầu vàng trên tổng số 46 tầu) đã phải khóc nói: Mỗi một tầu vàng trị giá gần hai tỷ, giờ yêu cầu di dời nhanh quá, chúng tôi chỉ có nước tháo ra bán sắt vụn, mấy chục tỷ đồng, giờ vớt vát được vài trăm triệu. Nhưng ông Trường vẫn phải kiên quyết : “Thôi bây giờ chủ trương thế rồi, bây giờ không có thời gian để cho anh làm những việc khác bởi vì cái 566 (25- 5 - 2012) là thực hiện tiếp cái 119 (20-2-2012) (tức là đã có gần ba tháng để các anh biết mà tự di dời, nhưng các anh đã không làm) nên bây giờ đừng có nói đến thời gian nữa”. Ông Trường cũng cho biết, phương châm của Ban chỉ đạo giải tỏa là để cho các doanh nghiệp tự nguyện phá dỡ và di dời, còn nếu chống đối, thì chính quyền sẽ cưỡng chế quyết liệt… (Theo lời ông Nguyễn Xuân Trường báo cáo thêm một vấn đề nảy sinh sau buổi họp cam kết với các doanh nghiệp, là ông nhận được rất nhiều tin nhắn “không đâu vào đâu, mang tính chất đe dọa” nhắn vào máy di động. Ông đã cho mọi người trong đoàn giải tỏa xem và đọc lại cho mọi người trong buổi họp thường trực thường vụ huyện tới).
Việc cho đến đầu tháng 6 -2012, chính quyền các cấp, ngành từ tỉnh đến huyện ra tay quyết liệt với nạn “mổ bụng” và “đầu độc” sông Đà bằng hoạt động khai thác vàng sa khoáng là một động thái rất đáng hoan nghênh. Theo ghi nhận của các phóng viên, thì cho đến 20 – 6, cơ bản, tất cả số tầu vàng trên khu vực sông Đà ở khu vực Mường Tè đã bị dừng hẳn hoạt động và tháo dỡ đa số. Tuy nhiên, nếu nhìn lại, thì những “nghiêm lệnh” này nếu được các huyện thực hiện nghiêm túc sớm hơn nữa, bắt đầu từ công văn 1314 (18 -10 -2011) dừng cấp phép hoạt động khai thác khoáng sản, rồi tiếp theo công văn 119 (20 – 2-2012) yêu cầu đóng cửa mỏ trước ngày 29-2. Không trì hoãn, lần lữa tranh tối tranh sáng vì những lợi ích nào đó, để đến nỗi chính sách bị “vô hiệu hóa”. Các doanh nghiệp vẫn cứ ngang nhiên làm tiếp, thì “sự đâu nên nỗi” báo chí phải bức xúc vào cuộc. Các doanh nghiệp cũng có thời gian vài tháng để lên phương án chuẩn bị và thời gian phá dỡ, di dời từ từ, tránh bị thiệt hại nặng, dẫn đến việc họ phải “đe ngược” lại cả ông Phó chủ tịch huyện.
Như đã nói từ đầu bài, trong các công văn số 119, rồi 566 của UBND tỉnh đều nhấn mạnh chữ: “nếu huyện nào còn để xảy ra tình trạng khai thác vàng trên địa bàn thì Chủ tịch UBND huyện đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chủ tịch UBND tỉnh”. Nhưng cho đến nay, chẳng thấy ông chủ tịch huyện nào phải “chịu trách nhiệm” gì cả. Ngày 27 – 6 - 2012 vừa qua, khi phó chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, ông Lê Trọng Quảng vừa đi kiểm tra phòng chống lụt bão, thì thấy tại địa điểm Lai Hà vẫn còn một điểm làm vàng trên bộ và tại địa điểm xã Lê Lợi (huyện Sìn Hồ) vẫn còn 3 tầu vàng hoạt động dưới sông, húc cả vào rìa tỉnh lộ 279, (việc này rất dễ gây sạt lở đường nếu trời mưa). Ông Phó chủ tịch tỉnh sau khi ngao ngán rút điện thoại gọi cho chủ tịch huyện Sìn Hồ, bèn yêu cầu các phóng viên đi cùng… làm tin phản ảnh gấp !
(Còn nữa)