Kiên Mỹ, vùng quê đẹp bên sông Kôn

Kiên Mỹ - một làng quê bên tả ngạn sông Kôn (huyện Tây Sơn, Bình Ðịnh). Ðây là vùng đất sơn thủy hữu tình, được thiên nhiên ưu đãi, là quê hương của ba anh em nhà Tây Sơn, mà trong đó tiêu biểu là Quang Trung - Nguyễn Huệ, người đã lãnh đạo toàn dân lập nên nhiều chiến công hiển hách ở thế kỷ 18 để thống nhất đất nước, và giữ vững nền độc lập dân tộc...

Xưa kia, Kiên Mỹ là một thôn thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Sau nhiều thay đổi, đến khi thành lập huyện Tây Sơn vào năm 1976, thôn Kiên Mỹ nhập vào thị trấn Phú Phong và gọi là Khối 1. Trong lịch sử lâu dài của mình, Kiên Mỹ gắn liền lịch sử phong trào Tây Sơn, vì đây là quê hương của ba anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Lữ - Nguyễn Huệ. Sau ngày Gia Long lên ngôi, ngôi nhà của gia đình anh em Tây Sơn bị phá hủy. Từ tấm lòng ngưỡng mộ, sùng kính đối với các vị anh hùng dân tộc, dân làng Kiên Mỹ đã dựng trên nền nhà ấy ngôi đình của làng Kiên Mỹ.

Từ thời Tây Sơn, nghề buôn trầu ở Kiên Mỹ rất thịnh hành và nổi tiếng, vì thế mà bến Trường Trầu đã ra đời để đáp ứng quan hệ trao đổi buôn bán giữa người Việt (Kinh) và đồng bào dân tộc thiểu số. Bến Trường Trầu nằm bên tả ngạn sông Kôn, cách cầu Kiên Mỹ cũ khoảng 300 m về phía đông, thuộc địa phận xóm Trầu, xóm Hưng Hóa của Kiên Mỹ. Ngày Nguyễn Nhạc còn mang biệt danh là 'anh hai Trầu', vẫn xuôi ngược dòng sông Kôn để buôn bán với đồng bào Ba Na. Khi phong trào Tây Sơn chuẩn bị khởi nghĩa, bến Trường Trầu trở thành địa điểm liên lạc của nghĩa quân. Bến Trường Trầu đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích lịch sử vào ngày 16-11-1988. Cùng với thời gian, do sự bồi lấp của dòng sông Kôn, bến Trường Trầu đã cạn, thuyền bè không cập bến được. Nhưng địa danh lịch sử cùng với các truyền thuyết về 'anh hai Trầu' vẫn sống mãi trong ký ức của nhân dân. Cùng với bến Trường Trầu, dọc đường liên xã về đất thượng võ An Vinh, cách Bảo tàng Quang Trung khoảng 300 m về phía bắc, có một địa danh là Gò Ðá Ðen. Có tên gọi đó vì từ xưa, khu vực này đã mang một vẻ đẹp huyền bí, với những tảng đá sắc mầu đen thẫm đủ loại kích thước và hình dáng nằm án ngữ trên một dải đất bằng phẳng. Lợi dụng địa hình đặc biệt, năm 1773, Nguyễn Nhạc xây dựng ở đây khu luyện tập của nghĩa quân Tây Sơn. Qua bao thăng trầm và biến cố lịch sử, các di tích thời Tây Sơn nói chung, di tích Gò Ðá Ðen nói riêng hầu như bị tàn phá. Ngày 16-11-1988, Gò Ðá Ðen được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa.

Ngày trước, Kiên Mỹ có bảy xóm, tên gọi của mỗi xóm gắn liền với tên của một nghề thủ công hoặc buôn bán. Tuy nhiên, sau mấy trăm năm, các ngành nghề truyền thống ở đây cũng có phần mai một. Theo lời kể của các cụ cao tuổi trong xóm thì hàng thế kỷ trước, xóm Rèn (Hưng Nguyên) ngày nào cũng tưng bừng không khí làng nghề. Bà con rèn dao, cuốc, thuổng,... và một số dụng cụ bằng sắt để trao đổi, mua bán với đồng bào miền núi. Về sau, có lẽ do thu nhập từ nghề rèn không cao, cũng có thể do sản phẩm từ nghề rèn được sản xuất từ nơi khác đem tới nhiều hơn, nên nghề rèn không còn phát triển nữa. Xóm Trầu (Hưng Hòa), là nơi có bến Trường Trầu. Ngày xưa, bến là tụ điểm trao đổi, mua bán trầu cau giữa miền núi rừng Tây Nguyên và đồng bằng. Sau này bến cạn, nghề buôn trầu không còn, một số người ở xóm Trầu nhập vào xóm Rèn, xóm Ðậu. Hiện nay, ngoài nông nghiệp, để tăng thu nhập cho gia đình, người dân xóm này có thêm một số nghề khác. Riêng bà con ở xóm Ðậu là vẫn còn làm nghề. Vì từ lâu lắm rồi, bà con ở xóm này đã sử dụng nông sản vốn có của địa phương là hạt đậu nành - đậu tương, để sản xuất đậu phụ bằng phương pháp thủ công. Ðậu phụ do bà con xóm Ðậu sản xuất là những miếng đậu trắng ngà, thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng, cung cấp thị trường Phú Phong và vùng lân cận. Cho đến hôm nay, nghề làm đậu phụ ở xóm Ðậu vẫn giữ gìn và phát triển được truyền thống của một 'xóm nghề'. Tương tự như thế là ở xóm Bún (Hưng Bửu). Nghề truyền thống của bà con xóm này là làm bún, làm bánh hỏi, bánh tráng... Hiện nay vẫn còn hơn 50% số hộ của xóm làm nghề này. Mấy năm nay, do được sự hỗ trợ của kỹ thuật, với một số loại máy móc tham gia vào quy trình sản xuất nên bà con theo nghề làm bún ở xóm Bún đỡ vất vả hơn mà thu nhập lại khá hơn. Lại nữa là xóm Ươm (Hưng Hóa). Ở đây có nghề trồng dâu nuôi tằm kéo sợi từ lâu đời. Từ sau năm 1954, nghề này sa sút dần, những năm gần đây đã từng bước phục hồi và phát huy. Rồi xóm Mía (Hưng Thạnh) có nghề trồng mía nấu đường. Nghề này không còn hưng thịnh như trước, bà con lại tập trung vào việc trồng mía. Hiện tại ở Kiên Mỹ có hơn 6 ha trồng mía, và khoảng một phần tư số hộ ở xóm Mía đã và đang trồng mía để cung cấp nguyên liệu cho Công ty cổ phần Ðường Bình Ðịnh.

Từ xóm Bún đi theo đường rải nhựa là đến Bảo tàng Quang Trung. Bảo tàng xây dựng trên một diện tích rộng rãi, quy hoạch hài hòa, không khí mát mẻ, trong lành, thoáng đãng. Ðịa điểm xây dựng Bảo tàng trước đây là nơi buôn bán tấp nập của người dân xóm Chợ, gọi là chợ Kiên Mỹ. Một thời, chợ này được xem là chợ lớn nhất trong vùng. Chợ họp sáu phiên mỗi tháng. Chung quanh chợ có phố xá và hàng quán buôn bán, cho nên thường xảy ra hỏa hoạn, dân ở xóm Chợ đã lập miếu Hỏa Ðức để thờ 'thần lửa'. Tới đầu những năm 60 của thế kỷ trước, chợ Kiên Mỹ mới thật sự không còn sử dụng. Ðến năm 1977, sau khi quy hoạch thôn xóm, lập công viên Bảo tàng Quang Trung, các hộ dân ở xóm Chợ chuyển vào xóm Mới. Cùng với quá trình khai khẩn, phát triển nông nghiệp và các nghề thủ công truyền thống, người dân Kiên Mỹ biết lợi dụng địa hình tự nhiên tạo nên những con đập, con mương đưa nước về tưới tiêu cho đồng ruộng như đập Thủy Làng, đập Lỗ Ổi. Mương Văn Phong (được đặt theo tên của một vị tiền hiền có công đứng ra tổ chức khai mương, đắp đập) hệ thống kênh mương rất quan trọng, cung cấp nước cho một vùng đồng bằng rộng lớn. Ngày nay, con mương Văn Phong vẫn uốn lượn chảy qua khu vực Bảo tàng Quang Trung, góp phần tạo nên một khung cảnh nên thơ hấp dẫn đối với du khách đến tham quan.

Tiếp nối truyền thống của cha ông, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Kiên Mỹ một lòng theo Ðảng, tích cực cùng đồng bào cả nước đứng lên đấu tranh giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Và trong truyền thống của mình, đến hôm nay, Kiên Mỹ vẫn được xem là một trong những làng võ cổ truyền, trung tâm nổi tiếng về võ thuật với dòng võ Tây Sơn độc đáo của tỉnh Bình Ðịnh. Ở Kiên Mỹ, luyện võ đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, cha truyền con nối, tiếng tăm lan rộng. Do đó có thể nói, Kiên Mỹ là một mô hình làng mang đặc trưng của văn hóa Bình Ðịnh và lại có nét bản sắc riêng biệt mà diễn trình lịch sử của một vùng đất đã tạo nên, như câu ca dao ân tình của người Kiên Mỹ: 'Cây me cũ, bến Trầu xưa - Dẫu không tình nghĩa cũng đón đưa trọn niềm!'.

Ðất Kiên Mỹ giàu tiềm năng và ngày càng giàu đẹp, người Kiên Mỹ nhân từ, đôn hậu, có truyền thống đấu tranh cách mạng. Kiên Mỹ đang ngày càng phát triển trong sự đa dạng, phong phú của một vùng văn hóa độc đáo, có tiềm năng du lịch. Do vậy mà danh hiệu Làng văn hóa Kiên Mỹ đã được UBND tỉnh Bình Ðịnh công nhận từ năm 2001. Về sau, Kiên Mỹ quy hoạch phát triển thành hai khối phố (khối 1 và khối 1A). Chính quyền và nhân dân Kiên Mỹ đã xây dựng, phấn đấu để bảo lưu danh hiệu Làng văn hóa trong chín năm liền, tới năm 2009, Kiên Mỹ tiếp tục được công nhận danh hiệu Khu phố văn hóa. Tổng kết mười năm thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh Bình Ðịnh, Khu phố văn hóa Kiên Mỹ là một trong 11 làng và khu phố văn hóa tiêu biểu trên toàn tỉnh, được UBND tỉnh Bình Ðịnh biểu dương, khen thưởng vì đã có thành tích xuất sắc trong mười năm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.

Có thể bạn quan tâm