Cánh rừng không lớn lắm, chắc chỉ độ ba, bốn ha là cùng, nhưng lại nổi bật bởi chiều cao của cây cổ thụ và là nơi cư trú của đàn cò trắng đông đúc đang đứng rỉa lông sau khi đã no nê. Thỉnh thoảng, lại có thêm đàn chim cốc đen tuyền bay về, đông tới vài chục con chọn cây cao giữa rừng đứng xúm xít, càng làm cho khu rừng thêm sinh động. Khu rừng già này tồn tại ngay giữa cánh đồng rộng mênh mông của hai xã Ea Pal và Chư Brông, chỉ cách thị trấn Ea Knốp chừng năm cây số. Nhiều người qua đây dừng lại ngắm nhìn mà không khỏi tò mò trước khu rừng bất thường này. Gọi là "bất thường" vì giữa vùng đất bằng phẳng và trù phú, có đường kính cả chục km, người dân đã canh tác, trồng trọt hoa màu, rồi những ngôi nhà xinh xắn và khang trang nối tiếp nhau xếp hàng, thế mà vẫn tồn tại một khu rừng đứng uy nghi như thách thức với thời gian. Cũng như bao người từng qua đây và bị ngỡ ngàng trước khu rừng, tôi tò mò muốn biết điều thần kỳ nào đã giúp khu rừng tồn tại...
Theo con đường đất cấp phối liên xã rải đất đỏ, tôi đến khu rừng và phát hiện ra một điều lạ: mặc dù đang giữa buổi sáng, trên ngọn cây cao nhất mọc ở phía bắc khu rừng có ba chú vạc đứng lênh khênh trên ngọn cây, chĩa chiếc mỏ dài lên trời cao. Loài vạc nơi đây lông mầu xám, trên đầu có một túm lông dài, trông giống hình tượng chim hạc. Khi đứng, chúng cao đến cả mét, còn khi bay thì đôi cánh giang ra cỡ bằng cả sải tay người lớn. Tới gần hơn, tôi thấy khu rừng được bao quanh bằng lưới B40, móng xây gạch khá kiên cố; bên trong hàng rào, một bầy lợn rừng đông đúc đang hì hụi ủi tìm thức ăn dưới gốc cây. Cùng với đàn lợn là lũ chim rừng nhảy nhót chung quanh, tíu tít. Thế ra cánh rừng này có chủ và chủ nhân tận dụng tán rừng già để thả lợn rừng. Dạo quanh hàng rào, tôi tìm đến ngôi nhà xây kiểu mái Thái, hai gian nép mình dưới bóng cây phía tây cánh rừng. Nhà có lẽ đã xây lâu, vì bức tường mầu vàng đã loang lổ vết thời gian. Trước sân bên cạnh chiếc xe máy là chiếc xe công nông chất đầy dưa, bí đỏ và đu đủ, hình như mới hái từ rẫy về. Thấy khách, một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi bước ra chào hỏi rồi mời vào nhà uống nước.
Phòng khách của ngôi nhà kê bộ xa lông lót nệm, tủ đứng đóng bằng gỗ khá cầu kỳ; giữa tủ đặt chiếc máy thu hình mầu. Qua trao đổi, được biết chị tên là Phạm Thị Xinh, người dân tộc Mường, quê xã Vĩ Tân, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, vào đây định cư từ năm 1991. Chị kể rằng, ngày trước vì gia đình đông nhân khẩu, kinh tế khó khăn, cho nên cả bốn anh em bên nhà chồng rủ nhau vào đây khai hoang, định cư lập nghiệp. Chồng chị, anh Phạm Văn Ðào là người con thứ. Mới đó mà đã hơn 20 năm, mấy anh em mưu sinh trên vùng quê mới. Anh Ðào và chị Xinh có hai người con, cậu cả năm nay đang học lớp 11. Chị Xinh cho biết: "Hai vợ chồng ở nhà chăm sóc vườn tược, ao hồ cũng tạm đủ sống". Nghe chị Xinh nói vậy, tôi mỉm cười. "Tạm đủ sống" của chị là nhà cửa đã xây dựng khang trang, các tiện nghi sinh hoạt hiện đại được sắm sanh gần như đầy đủ. Như thế phải gọi là sung túc, và chắc chắn không còn nghèo như những ngày ở quê. Chị Xinh là người phụ nữ chân chất, nước da bánh mật, lại có vóc dáng khỏe mạnh, đúng mẫu người nông dân đồng rừng thường phải leo núi, trèo đèo. Chúng tôi đang vui vẻ trò chuyện thì anh Phạm Văn Ðào về. Sau cái bắt tay thật chặt, anh cho biết thêm: "Ngày xưa ở quê vất vả quá, mấy anh em rủ nhau vào đây cùng làm ăn, sinh sống. Cô út nhà xây cạnh ngã ba đường rẽ vào đây; bác cả nhà xây đối diện phía bên kia ao cá, còn bác hai chếch phía tây kia kìa".
Anh Ðào đưa tay chỉ ra hướng trước mặt ngôi nhà mình, cách xa khoảng 500 m, một ngôi nhà mái Thái có tới ba nóc đứng soi bóng bên hồ thả cá có lẽ phải rộng đến vài sào.
- Bốn anh em quản lý trọn cả vùng đất này sao?
- Khu này trước đây là rừng rậm, người ta đã khai thác gần như kiệt quệ. Từ khi vào đây, mấy anh em chúng tôi cùng khai phá và chia nhau cùng sử dụng; phần tôi chắc gần chục ha.
- Ðất rộng vậy, hai vợ chồng làm sao cho hết? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Vợ chồng quen lam lũ rồi, phải chịu khó làm thôi. Nhiều đất thì trồng khoai mì, trồng mía đỡ công chăm sóc. Ngoài ra còn trồng thêm được ba ha cao-su, sau hai năm cây cao hơn đầu người rồi đấy.
Anh Ðào kể, ở đây nhiều gia đình đang trồng cao-su. Ðất rộng, trồng loại cây này trong vòng hai năm đầu vẫn có thể trồng đậu, bắp hoặc khoai mì xen vào, vừa đỡ công làm cỏ, lại có thêm thu nhập. Ðất vùng này có vẻ hợp với cây cao-su, cho nên nhà nào cũng trồng, nhà ít vài ha, nhà nhiều thì năm, sáu ha. Ðất và khí hậu thích hợp, cây lớn nhanh lắm. Ngoài thâm canh trên đất nương rẫy, các hộ gia đình ở đây đều có ruộng trồng lúa, năng suất đủ cung cấp gạo ăn quanh năm cho các gia đình. Không chỉ trồng trọt, nhà nào cũng đào ao thả cá, mỗi năm thu hoạch hai vụ, đủ chi tiêu hằng ngày. Lại còn chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò... Như gia đình anh Ðào, chị Xinh, hiện có năm con trâu, hơn 40 con lợn rừng. Còn gà thì không tính, mỗi năm thu nhập sơ sơ chắc hơn 100 triệu đồng. Tôi hỏi thêm:
- Nhà mình nuôi lợn rừng lâu chưa? Có nhờ ai đầu tư vốn không?
Anh Ðào thủng thẳng: "Trước đây, nhà tôi chỉ nuôi vài con lợn để tận thu cám và cơm thừa. Sau thấy trên truyền hình giới thiệu cách thức chăn nuôi lợn rừng có lãi, lại ít dịch bệnh; thế là chúng tôi lần theo địa chỉ do truyền hình giới thiệu, đến tận nơi học hỏi cách nuôi và mua giống thả. Gần một năm, đàn lợn phát triển nhanh, sinh sản rất tốt, đã bán được một ít rồi. Nhưng giá mua tại chuồng của thương lái chỉ có 70 nghìn đồng một kg thôi. Biết là rẻ nhưng chưa biết bán ở đâu có giá hơn. Sức mình bỏ ra, tiền bạc tích cóp, vì thế vốn đầu tư là của gia đình chứ không phải vay của ai". Rồi anh dẫn tôi ra xem bầy lợn rừng nuôi trong khuôn viên cánh rừng già. Anh vừa cất tiếng kêu "út, út, út" và vung một nắm bắp qua lưới sắt vào phía trong hàng cây, bầy lợn, gà chạy túa đến thi nhau nhặt từng hạt, trông thật vui mắt. Anh Ðào chỉ con lợn đực giống khoảng gần tạ, răng nanh dài như ngón tay chìa ra trắng hếu, nói: "Con này giá gần chục triệu đồng đấy, còn năm con mẹ sắp đẻ thì phải nhốt riêng để chăm sóc; khi nào các con cứng cáp mới thả vào cùng bầy". Ăn xong, bầy lợn lại tản vào rừng. Tôi tò mò hỏi: "Tại sao anh giữ lại khu rừng này mà không phá đi để trồng hoa màu như mọi nhà khác?". Anh Ðào kể:
- Trước đây rừng bạt ngàn, vì mưu sinh mà mọi người phải chặt phá lấy đất trồng trọt, đốt gỗ lấy than. Mình cũng tham gia cùng mọi người, tới khi phá gần hết rừng mới sực tỉnh, mình sống nhờ rừng sao lại phá rừng. Thế là mình bàn với anh em, dù thế nào cũng phải giữ lại cánh rừng nhỏ. Lúc ấy chưa nghĩ là giữ lại để làm khu chăn nuôi, mà giữ vì muốn cho con cháu mai sau còn biết thế nào là rừng Tây Nguyên. Hồi ấy thì có ai nghĩ sẽ đến ngày thả lợn rừng vào đó đâu. Không ngờ, giờ đây cánh rừng lại là nơi trú ngụ của chim trời, làm đẹp cho cả vùng đất này.
- Anh chị giỏi quá! Tôi bật khen khi anh nói dứt lời.
- Mình chưa giỏi bằng chị dâu cả đâu.
- Chị anh giỏi thế nào nữa cơ ạ?
Anh Ðào giọng bùi ngùi, mấy chục năm trước, bốn anh em rủ nhau vào đây, cặm cụi làm ăn. Khi kinh tế tạm ổn thì anh cả bị tai nạn giao thông và ra đi, để lại người vợ - chị Phạm Thị Chiên và hai đứa con thơ. Bằng sự chịu thương, chịu khó của người mẹ, chị đã nuôi con ăn học; đứa con đầu đang học năm cuối Trường đại học Y Huế; người con thứ hai đang học năm thứ hai Ðại học Y Tây Nguyên.
Theo chân anh, tôi băng qua bờ ao, vượt chiếc cầu gỗ bắc qua suối vào thăm nhà chị Phạm Thị Chiên, chị dâu trưởng của gia đình họ Phạm. Trước mặt tôi là người phụ nữ đứng tuổi, khuôn mặt tròn, có đôi mắt nhìn phúc hậu nhưng đượm buồn. Chị Chiên kể: Ở quê, người ta thường hay chọn vợ gả chồng cùng bản. Hiểu nhau, chơi thân nhau từ bé và hình như duyên số đã định sẵn, anh chị thành vợ thành chồng như chuyện đến bữa phải ăn, đến đêm khuya phải ngủ vậy thôi. Không may chồng vắn số, sớm về với tổ tiên, mình phải thay chồng nuôi dạy các con ăn học nên người. Chúng sợ mẹ vất vả có đứa định bỏ học về làm, chị kiên quyết không cho và tuyên bố: Mẹ cực thế nào cũng được, các con có thương mẹ phải học thật giỏi là được rồi. Một mình chị quần quật cả ngày lẫn đêm trên diện tích gần tám ha vừa trồng lúa, trồng mía, trồng khoai mì, rồi chăn nuôi: trâu, bò, lợn, gà, thả cá... Năm ngoái, đầu tư trồng hai ha cao-su, cây lớn nhanh lắm; dưới gốc cao-su trồng khoai mì, cuối năm thu cũng đủ cho hai con đóng tiền học. Nhà neo đơn, chị Phạm Thị Chiên tập trung nuôi gà. Lấy ngắn nuôi dài, mỗi tháng chị mua vài trăm con gà mới nở về chăm sóc, cứng cáp thì thả ra vườn cho chúng nhặt sâu bọ; sau ba tháng là bán được, để lớn hơn thương lái không mua. Mỗi tháng bán một lứa vài trăm con, trừ chi phí cũng đủ chi tiêu hằng ngày cho cả ba mẹ con.
Căn nhà xây cấp bốn, hai gian, ba phòng, nền lát gạch hoa, có diện tích hơn trăm mét vuông; trong nhà trang bị đầy đủ tiện nghi như máy thu hình, bàn ghế, tủ... khá bắt mắt. Có lẽ ít ai dám nghĩ đến cảnh một người đàn bà góa sống gần bảy năm trời ở nơi chân đồi xa xôi của thôn 9, xã Ea Pal, huyện Ea Kar, tỉnh Ðắc Lắc, đã vượt lên tất cả khó khăn, vất vả đời thường nuôi hai con học đại học mà vẫn còn có tiền đầu tư vào phát triển kinh tế lâu dài.
Mặt trời đứng bóng, tôi rời xóm nhỏ nơi góc rừng, tạm biệt mấy anh em nhà chị Chiên, tạm biệt bà con trong xóm, tôi suy ngẫm mãi về những người nông dân trên mảnh đất này. Mới hay, sự cần cù, biết học hỏi và làm ăn có bài bản, cùng với lòng kiên trì, không nề hà vất vả... là những yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự phát triển của mỗi hộ gia đình, của cả cộng đồng.