Long đong kịch bản
Bắt đầu với ba kịch bản Mộc Quế Anh dâng cây, Ngũ Vân Thiệu, Đào Tam Xuân , việc khôi phục kịch bản tuồng cổ đã được Nhà hát Tuồng TƯ triển khai ngay từ khi thành lập (1959).
Khi đó, Nhà hát có một ban sưu tầm riêng với các nghệ nhân Quang Tốn, Bạch Trà, Ba Tuyên, Lê Bá Tùng... Công việc của các cụ là đi nhặt nhạnh, tìm kiếm những pho kịch bản từ các gánh tuồng gia đình ở Hà Bắc, Hải Phòng, Thái Bình, Đông Anh. Những kịch bản này vốn dĩ được chép tay bằng chữ Nôm, truyền lại qua bao đời. Cá biệt, một vài kịch bản cổ không còn ở dạng văn bản nhưng vẫn được các nghệ nhân đọc thuộc lòng cho người sưu tầm chép lại...
Bẵng đi vài chục năm, trong kho của Nhà hát Tuồng TƯ có gần 30 kịch bản nằm xếp xó. Năm 1999, Nhà hát nhận rạp Hồng Hà. Bên cạnh việc phục dựng toàn bộ hơn 30 kịch bản đã sưu tầm, nhiệm vụ mới được Nhà hát đề ra tiếp tục tìm kiếm và bổ sung những pho tuồng cổ. Nhưng theo thời gian, công việc này đã mất dần tính khả thi.
Các cụ nghệ nhân Ba Tuyên, Bạch Trà khuất núi, mối liên hệ với các gánh tuồng gia đình từ thời Pháp thuộc cũng mất đi. Hiện giờ, các gánh tuồng ấy chẳng biết lưu lạc phương nào. Hàng chục vở tuyệt hay trong dân gian xưa đã mất đi, nay chỉ còn lại cái tên như Chung Vô Diệm phó hội, Giang Tả cầu hôn, Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy. May mắn thì có vở để lại vài tích diễn như Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (vở Võ Tam Tư trảm cáo), Tỷ Can dâng gan (Gián thập điều) . Thậm chí, có những tích diễn như Mạnh Lương bắt ngựa, Ngũ biến... đến nay giới sân khấu vẫn chưa truy nguyên được tên kịch bản gốc.
Giám đốc Hoàng Khiêm xót xa kể: Có lần, cụ Hoàng Châu Ký đi Anh về cho biết một số thư viện bên đó còn lưu giữ khá đầy đủ những kịch bản tuồng cổ Việt Nam (được sưu tầm từ thời Pháp thuộc và đưa sang Anh), trong đó có nhiều vở hiếm và lạ. Chúng tôi không dám nghĩ chuyện mua bản quyền, chỉ hy vọng vào con đường nhờ tùy viên văn hóa của sứ quán Anh giúp đỡ. Nhưng...
Tìm đâu trình thức?
| Ảnh trong triển lãm, vai diễn sân khấu tuồng cổ của nghệ sĩ nghiếp ảnh Hồng Nga. |
Bản thân việc phục dựng 30 kịch bản đã sưu tầm cũng đặt ra nhiều vấn đê cho các biên kịch và đạo diễn của Nhà hát tuồng Trung ương. Bởi, các kịch bản tuồng cổ đều chỉ ghi lời hát chứ không hề chú thích thêm về trình thức biểu diễn. Mà với nghệ thuật tuồng, nét đặc sắc nhất lại nằm ở lối diễn, bước đi, điệu roi, ánh mắt... vừa nặng tính ước lệ, vừa đầy tính khoa trương, cách điệu. Hầu như các mảng miếng, trình thức đó đêu được các nghệ nhân lưu lại theo kiểu truyền nghề và đã rơi rụng khá nhiều theo thời gian.
Điển hình, lớp “Ôn Đình chém Tá” (Sơn Hậu), “Tạ Ngọc Lân lăn lửa” (Tam nữ đồ vương) chỉ có 5,7 dòng và vài điệu hát Nam trong kịch bản nhưng được diễn tới gần... 20 phút trong tuồng cũ. Thậm chí, các lớp “Châu Sương cấy râu”, “Châu Sáng qua sông” (Ngũ Vân Thiệu ) còn không được ghi lại một chữ nào.
Lứa diễn viên Hoàng Khiêm, Gia Khoản, Minh Gái, Hương Thơm... còn được xem các nghệ nhân diễn, được họ dạy lại theo kiểu truyền nghề. Nhưng tới các lứa học sinh hiện nay, việc nắm vững được những trình thức này xem ra đã là điều khó.
Một diễn viên lâu năm của ngành tuồng than thở: Vẫn biết, bản thân nghệ thuật tuồng luôn dành cho sự sáng tạo. Nhưng nhiều diễn viên trẻ bây giờ hát một câu tiếng Hán mà không hiểu nghĩa, đi một bước chân mà không biết phân tích tâm lý nhân vật như thế nào. Cái gốc chưa vững thì nói gì tới sáng tạo!
Ở khía cạnh khác, những câu hát tiếng Hán của tuồng (có khi chiếm tới hơn nửa lời thoại của vở) cũng là điều gây băn khoăn cho những người phục dựng: Để nguyên tiếng Hán hay dịch sang tiếng Việt cho phù hợp tới cách hiểu của những người hôm nay?
Giám đốc Hoàng Khiêm kể: "Có lần, chúng tôi thử dịch lời trong vở Triệu Tử Long phò A Đẩu. Nhưng nghe ra cứ thấy... chối tai. Chẳng hạn, câu hát: tốc thuyết tốc thuyết! báo lai, báo lai! mà hát thành rất gấp, rất gấp, báo ngay, báo ngay thì đến diễn viên cũng phải... phì cười. Mà không thể đòi hỏi khán giả đủ vốn Hán học để hiểu tuồng. Chẳng lẽ, chúng tôi phải tính tới phương án dùng một bảng phụ đề tiếng Việt để... phục vụ khán giả?
Bây giờ, ban sưu tầm - dịch thuật - chỉnh lý - cải biên của Nhà hát Tuồng Trung ương chỉ vẻn vẹn có một người. Đó chính là ông Phó giám đốc Nhà hát: tác giả Khắc Duyên. Từ nhiều năm nay, ông không còn sáng tác nữa mà dồn thời gian cho việc chỉnh lý kịch bản tuồng. Khâu dịch kịch bản tuồng không chỉ đòi hỏi vốn chữ Nôm mà còn cần tới sự hiểu biết cơ bản về các trình thức biểu diễn tuồng, các điệu hát thán, hát nam, hát khách. Đã mấy lần, Nhà hát đã tính tới việc đưa các sinh viên ngành Hán Nôm về đào tạo dần. Nhưng nghe tới việc làm cho ngành tuồng truyền thống, họ đều từ chối. Bởi vậy, khá nhiều các kịch bản cổ đành phải nhờ người dịch "thô" một lượt, sau đó ông Duyên chuốt lại những lời thoại, dò từng câu hát để soạn thành một kịch bản tuồng hoàn chỉnh. Có lần bí quá, Nhà hát đành phải mời cả giáo sư Hà Văn Cầu của ngành chèo cổ sang làm cố vấn cho công tác dịch thuật này.
Buồn bã, ông Duyên nói: "Bây giờ, nhịp độ cuộc sống diễn ra ngày càng nhanh hơn. Người ta lao vào kinh tế, còn mình thì vẫn nặng lòng với văn hóa cổ mà khán giả nhiều khi chẳng mấy mặn mà. Thật lòng, chúng tôi yêu nghề nên vẫn muốn làm. Điều băn khoăn nhất là giới trẻ bây giờ đến xem tuồng cổ cũng lắc chứ chưa nói là chịu theo nghề. Khôi phục tuồng cổ, nhưng thiếu khán giả thì liệu có giữ được mấy vở ấy không?".