Trước thời điểm có hiệu lực thi hành vào ngày 1-7-2016, các đại biểu Quốc hội (QH) khóa XIII đã nhận được phiếu lấy ý kiến và tiến hành biểu quyết không phải tại phiên họp toàn thể, sau đó QH đã ban hành Nghị quyết về việc hoãn thi hành Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 và một số đạo luật có liên quan cho đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 có hiệu lực thi hành. Mặc dù vậy, Nghị quyết của QH cũng quy định kể từ ngày 1-7-2016, thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015, điểm (b) Khoản 1 Điều 01 Nghị quyết 109 thi hành BLHS 2015; áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS 2015.
Có thể thấy rõ những hệ lụy nghiêm trọng của sự cố này chắc chắn ảnh hưởng nhất định đến việc triển khai chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, thể chế hóa tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức bộ máy thực hiện quyền tư pháp, tác động lớn đến người dân. Bởi ngoài những điểm sai sót nêu trên, trong các đạo luật này có những quy định mới, rất tiến bộ liên quan đến chính sách hình sự mới, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng nay chưa được áp dụng đúng thời hạn. Qua Nghị quyết hoãn thi hành các đạo luật này, dư luận quan tâm nhiều đến chất lượng hoạt động lập pháp của QH, cơ chế và cách thức tổ chức soạn thảo, quy trình lấy ý kiến và thẩm định các dự án luật trước khi các đại biểu QH bấm nút thông qua.
Về thể thức ban hành Nghị quyết hoãn thi hành BLHS 2015 và các đạo luật có liên quan bằng cách lấy phiếu biểu quyết của các đại biểu QH khóa XIII là chưa có tiền lệ. Theo khoản 2 điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22-6-2015 thì Nghị quyết của QH nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, cho nên việc ban hành cũng phải bảo đảm tính tuân thủ pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó hoặc bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền. Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành theo khoản 1 Điều 12 của luật này.
Tuy nhiên, xét về hiệu lực việc bỏ phiếu của các đại biểu QH khóa XIII theo chúng tôi là hoàn toàn có căn cứ, vì Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13 ngày 20-11-2014 quy định “nhiệm kỳ của mỗi khóa QH là 05 năm, kể từ ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của QH khóa đó đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của QH khóa sau”.
Điều quan tâm là Luật Tổ chức Quốc hội lại chỉ quy định cách thức “biểu quyết tại phiên họp toàn thể” theo Điều 96, theo đó QH quyết định các vấn đề tại phiên họp toàn thể bằng biểu quyết. Đại biểu QH có quyền biểu quyết tán thành, không tán thành hoặc không biểu quyết, theo một trong các hình thức là biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín. Do đó, thể thức lấy ý kiến biểu quyết bằng cách gửi phiếu đến từng đại biểu, dán kín và nộp lại cho từng Đoàn đại biểu QH của từng địa phương và gửi về cho Văn phòng QH tổng hợp thực chất là “giải pháp tình thế” nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn trước tình trạng sai sót của BLHS 2015 được phát hiện trước ngày có hiệu lực thi hành.
Qua sự cố hy hữu này, có thể nhận thấy cơ chế và cách thức tổ chức soạn thảo, lấy ý kiến và thẩm định các dự án luật trước khi trình QH biểu quyết thông qua còn nhiều hạn chế, bất cập, vướng mắc. Khoản 5 điều 7 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định QH chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản do mình ban hành. Tuy nhiên, do các đại biểu QH phần lớn là kiêm nhiệm, lại không phải là những nhà nghiên cứu hay ngành nghề luật chuyên nghiệp, cho nên chất lượng các dự án luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, trách nhiệm của các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập, quy trình nghiên cứu tổng kết, đánh giá các yếu tố tác động, kết quả khảo sát pháp luật và thực tiễn của các nền tư pháp phát triển trên thế giới. Quy trình này cũng phụ thuộc vào chất lượng, thời gian bảo đảm và sự phối hợp, tổng hợp, biên tập, rà soát của các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính phủ, kế đến là các Ủy ban chuyên trách của QH trước khi trình Ủy ban TVQH xem xét, có Tờ trình ra QH thảo luận và biểu quyết.
Đối với BLHS năm 2015 liên quan đến nhiều chủ trương rất mới, phải đáp ứng tinh thần Hiến pháp năm 2013, các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập, đồng thời thể chế hóa chính sách hình sự hóa - phi hình sự hóa các hành vi bị coi là tội phạm. Ngoài ra, lại còn phải xử lý nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh… Đó là một khối lượng công việc khổng lồ mà quá trình dự thảo, lấy ý kiến các chuyên gia và người dân, xem xét thẩm định theo những cách thức còn nhiều hạn chế, lại bị khống chế trong thời hạn xây dựng và ban hành các đạo luật quan trọng này. Điều đó cũng góp phần lý giải vì sao BLHS 2015 tồn tại nhiều vấn đề phát sinh như vậy.
Chúng tôi cho rằng, “sự cố lập pháp” này là một kinh nghiệm sâu sắc để chính các cơ quan được giao nhiệm vụ soạn thảo, Quốc hội khóa mới có được bài học để xem xét lại thực chất quy trình xây dựng, lấy ý kiến, thẩm định và biểu quyết các dự án luật có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân và sự bình an của xã hội.