"Khách thương hồ" miền Hậu Giang

Khách thương hồ trên sông nước Hậu Giang.
Ảnh: Phan Thanh Cường.
Khách thương hồ trên sông nước Hậu Giang. Ảnh: Phan Thanh Cường.

Người Hậu Giang gọi họ là bà con miệt vườn, nhưng nhiều người lại đặt cho cuộc đời lênh đênh sông nước ấy cái tên là "khách thương hồ". Quê tôi nằm dọc bên sông Bạc Liêu, vì thế mà thuở nhỏ, năm nào tôi cũng được đắm mình trong cái không khí rộn ràng của mùa gặt. Bắt đầu là khi có gió chướng về. Ðó là một ngọn gió rất lạ, nó như ẩn chứa điều huyền diệu của thiên nhiên. Ðầu tiên là những ngọn gió giao mùa vần vũ, quật qua quật lại, sau đó là gió chướng sòng xuất hiện. Loại gió này vô cùng phóng khoáng, nó mang sự mát mẻ của đất trời thổi vào đồng ruộng, xóm làng. Nó làm không gian dậy lên hương lúa mới nồng đượm. Mọi người như rạo rực với ngày Tết đã gần kề, mong một mùa no ấm.

Trên sông Bạc Liêu, trăng tháng mười bàng bạc, từng đoàn ghe xuồng nối đuôi nhau kéo về. Tiếng quẫy nước, tiếng khua chèo, tiếng hát hò hòa lẫn với tiếng con vạc ăn đêm đánh thức những dòng sông lạnh vắng. Tiếng hò của ai đó cất lên: "Ðạo nào vui cho bằng đạo đi buôn - Xuống bể lên nguồn, gạo chợ nước sông". Cứ thế, khách thương hồ theo dòng nước lũ của sông Tiền qua sông Hậu, xuống Ngã Năm, Ngã Bảy để vào Bảy Xàu, Cổ Cò mà về Bạc Liêu, Cà Mau... Và vùng đất ở miền Hậu Giang nổi tiếng phèn chua nước mặn với câu ca: "Chèo ghe sợ sấu cắn chân - Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma" với những xóm nhà thưa thớt, đìu hiu, bỗng trở nên đông vui, nhộn nhịp. Tại các vàm sông như Ngã Năm, Ngã Bảy - nơi đầu mối thủy lộ tỏa ra nhiều vùng, các hàng quán bán bánh dừa, bánh tét, cháo gà đã mở ra. Khách thương hồ mua rồi bán lại một ít trái cây miệt vườn. Mãi rồi sinh hoạt mua bán ngày một sầm uất, trở thành chợ nổi trên sông đặc biệt ở miền Hậu Giang. Còn tại các xóm làng của Bạc Liêu, Cà Mau, như xóm tôi chẳng hạn, ghe, xuồng đủ loại ken dày các bến sông, các đầu kênh thủy lợi. Xuồng, ghe đều có mui, được chằm từ lá dừa nước. Khi tìm được bến đậu, bà con khiêng mui ghe lên bờ để làm chòi trú nắng mưa. Tốp ghe thì năm, ba nhân công trai tráng; tốp khác lại là những cặp vợ chồng với con nhỏ. Bà con còn nuôi gà, nuôi lợn trên những chiếc ghe nhỏ xíu. Sáng sớm, ở đầu các vàm kênh đã thấy ánh lửa bập bùng, những người gặt lúa thuê nấu cơm ăn để đi làm sớm. Họ là thợ gặt chuyên nghiệp, làm năng suất gấp đôi người địa phương, trời đứng bóng đã thấy họ gặt xong một công lúa. Chính kỹ thuật cắt lúa thấp bằng lưỡi hái trên ruộng lúa ngắn ngày (trái với kỹ thuật thu hoạch lúa của người địa phương) đã được người miệt vườn du nhập vào miền Hậu Giang.

Trên sông, khách thương hồ cất lên giọng hò: "Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng - Nước xao, trăng dợn biết rằng về đâu". Hát thế là hát cho kẻ mới đi gặt, đi buôn xuống miệt Hậu Giang lần đầu, hoặc của dân thương hồ ngày nay, chứ ngày xưa, đa phần khách thương hồ đều có bến đậu. Ở làng tôi, vào vụ gặt là gần như các gia đình trong xóm đều có 5 - 10 người từ miệt vườn đến trú ngụ. Là người quen cả, năm ngoái họ tạm biệt về vườn ăn Tết, năm nay họ lại xuống làm ăn. Nhà tôi là bến đậu của cậu út, người Cửu Long. Ba tôi kể rằng, đời ông già cậu út cũng đã ở nhà ông nội tôi để đi gặt rồi, thế nên, tình cảm gắn bó như bà con. Cậu út xuống với mợ út cùng hai đứa con: Thằng Tâm và con út Mén.

Họ đến thì gia đình tôi mừng. Lũ trẻ sẽ được ăn trái cây miệt vườn và có bạn chơi. Còn người lớn thì lâu ngày gặp lại. Ghe cậu út năm nào cũng chở một số trái cây gồm mít, xoài, mận... để vừa có cái tặng bà con miền Hậu Giang, vừa bán để kiếm ít tiền làm phí đi đường. Cũng chẳng biết vì sao ba má tôi lại quý họ như thế. Má tôi bán dùm hàng cho mợ út, ba tôi thì "dằn" công gặt có giá cao cho cậu út. Sau một công gặt, còn thời gian rảnh, ba tôi dẫn cậu út đi bắt cá cạn, hay xin một ít cá lóc, cá rô loại nhỏ của láng giềng tát đìa để cậu út xẻ khô, làm mắm mang về quê vào cuối vụ gặt. Lúc đó, xóm tôi cứ nhộn nhịp, nhất là về đêm. Má tôi đốt đèn măng-sông sau sàn lán để làm cá mắm với mợ út. Còn tôi với thằng Tâm, út Mén thì dẫn trâu đạp rơm giữa khoảng sân rộng. Trăng tháng mười vằng vặc, lũ trẻ chúng tôi mặc sức nô đùa. Gọi út Mén là thuở 11-12, chứ sau này, khi út Mén 18 tuổi, tôi vụng về gọi bằng cô Út Lan. Năm đó, Út Lan về quê, tôi đứng nơi đầu sông mà dõi mắt về phía cuối sông, cất lên câu hò sông Hậu: "Em về Giồng Dứa qua truông - Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai!".

Xưa kia, đời khách thương hồ lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, có những nỗi niềm sướng khổ rất riêng. Bà con lang bạt, bốn phương là nhà, nếm trải nhiều món ngon vật lạ, thuộc làu trăm nẻo xa xôi. Nhưng họ cũng là người chịu nhiều thiệt thòi vì con cái không được học hành, thiếu người thân an ủi, đỡ đần. Nên có cái cảnh thuở trước thường xảy ra ở xóm tôi là dân gặt thuê tới nơi thì đổ bệnh, không có sức để làm, nên gần Tết mà không có tiền về quê. Nhớ đến cái bàn thờ gia tiên lạnh lẽo khói hương nơi Tiền Giang xa xôi mà chạnh lòng, họ đi nghêu ngao rồi hò rằng: "Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy - Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa - Gởi thơ thăm hết mọi nhà - Trước là phụ mẫu sau là thăm em". Trước tình cảnh ấy, bà con xóm tôi thường mời họ lên bờ, giữ họ ở lại để cùng ăn Tết với gia đình. Cũng nhậu nhẹt, cũng bánh trái để an ủi đời tha phương. Lớn lên, tôi cứ thắc mắc không biết vì sao và từ bao giờ mà có tập quán làm ăn của khách thương hồ, vì sao dân miền Hậu Giang như ba má tôi lại đùm bọc, thương yêu bà con miệt vườn như ruột thịt? Mãi sau này, khi nghe người lớn tuổi kể lại và qua tìm hiểu đôi chút về lịch sử, tôi mới sáng mắt ra.

Người từ vùng Tiền Giang đổ về vùng Hậu Giang làm ăn đã có quá trình hơn mấy trăm năm, nhưng có ba làn sóng di dân lớn. Làn sóng thứ nhất là khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh Nam Kỳ. Thành quả xây dựng văn minh miệt vườn của vùng Tiền Giang bị tàn phá nặng nề. Cụ Nguyễn Ðình Chiểu viết: "Bến Nghé, cửa Tiền tan bọt nước - Ðồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây...". Những làng quê trù phú, những ruộng vườn thành khoảnh bị gót giày quân xâm lược giẫm nát, người Tiền Giang phải bồng bế nhau lên những chiếc ghe cui, ghe bầu chạy về miền Hậu Giang. Làn sóng thứ hai là cơn bão năm Thìn (1904), và tiếp theo là nạn cào cào tàn phá hoa màu vào đầu thế kỷ 20. Thiên tai địch họa đã đẩy người miền Tiền Giang vào cảnh đói khổ, và bà con bồng chống nhau đi về Hậu Giang. Làn sóng thứ ba là đợt hạn hán năm 1978 - 1979, vùng Gò Công, Bến Tre, Cửu Long mùa màng bị thất bát nặng nề liên tiếp 2 - 3 năm. Thế là bà con lại bồng bế nhau về miền Hậu Giang. Tôi đã chứng kiến trận di dân thứ ba. Trên sông Bạc Liêu năm đó dày đặc ghe xuồng, bất kể ngày đêm. Số lượng ghe xuồng nhiều đến cỡ phải vào cấp "binh đoàn". Các xóm làng vùng Hậu Giang tràn ngập dân Tiền Giang. Người đến xin làm mướn, làm bất cứ việc gì. Người có ít của cải thì chở tủ, bàn, đồng hồ... xuống đổi gạo, đổi khoai. Vì thế mà xứ Bạc Liêu bây giờ có rất nhiều nàng dâu từ miền Tiền Giang được gả chồng vào cái ngày khó khăn đó.

Ông nội tôi cũng vốn là dân Tiền Giang lưu lạc về đây. Sinh thời, trong những buổi nhậu độc ẩm, ông khề khà giải thích lý do vì sao khi có hoạn nạn là dân miền Tiền Giang hay tìm về Hậu Giang. Vì vùng Hậu Giang đất rộng người thưa, dồi dào sản vật, dễ kiếm sống. Hơn nữa, dân Hậu Giang hiếu khách không đâu bì kịp. Vào nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, nếp nhà của người Hậu Giang là những căn nhà gỗ ba gian, trước nhà bao giờ cũng có 2 - 3 bộ ngựa gõ dày một tấc để tiếp khách. Khách đến nhà bất luận thân sơ, quen lạ, đều được gia chủ têm trầu mời dùng, đãi cơm rượu ngày ba bữa. Ðã thế, còn chỉ chỗ đất tốt cho khai phá, cho mượn trâu để cày bừa. Việc chứa khách trong nhà 2 - 3 năm là chuyện bình thường. Ðặc biệt, bà con hay chứa trong nhà những ông thầy nghề võ, thầy dạy chữ Nho, thậm chí cả "thầy bùa lỗ ban". Tất nhiên, tính cách phóng khoáng, hào hiệp ấy vốn có căn nguyên. Vùng Hậu Giang ruộng đồng cò bay thẳng cánh, tôm cá trên sông rạch hằng hà, việc khách ở trong nhà bao lâu cũng chẳng ảnh hưởng đến vật chất của chủ nhà. Người mới đến khẩn hoang không mâu thuẫn với quyền lợi của người cũ, mà ngược lại, còn hỗ trợ nhau để làm ăn. Ví như cấy một công ruộng thì chim, chuột cắn phá hết, nhưng cấy 100 công thì sự phá hoại bị phân tán, và thiệt hại cho mỗi gia đình không đáng kể. Xóm làng càng đông thì trộm cướp và thú rừng không dám bén mảng. Vì thế mà hình thành tập quán hiếu khách, lối sống phóng khoáng, hào hiệp đặc biệt của người Hậu Giang.

Ông nội tôi kể, đời thương hồ của ông tuy cực mà vui lắm. Những đêm trăng thanh gió mát, đậu ghe ở các vàm sông đợi nước, khách thương hồ cất lên điệu hò về cuộc đời tha phương cầu thực của mình. Cảm được nỗi lòng ấy, trên bờ, ai đó ra bờ sông hò đáp lại. Sau đó, ghe xuồng tụ lại nhiều thêm, người trong các xóm làng heo hút kéo ra đông hơn, hình thành hai phường hò đối đáp nhau. Sau những "trận hò" như thế, có khi khách thương hồ tìm được bến đậu, rồi có người nên nghĩa vợ chồng, nên tình thủ túc... Có thể nói quá trình di chuyển của khách thương hồ từ Tiền Giang về Hậu Giang là quá trình hai miền "cấy người" vào nhau. Ông nội tôi bảo, khi gặt mướn cho nhà ông cố ngoại tôi, thấy ông nội tôi giỏi giắn lại thật thà nên cố ngoại tôi kêu vào ở rể. Khi ông nội tôi ra ở riêng, năm nào cũng đón bà con quê cũ ở Tiền Giang về nhà ở để gặt mướn. Trong nhóm người đó có má tôi sau này. Người Hậu Giang cũng chẳng hề chê người Tiền Giang, bởi câu hò này đã nói lên điều đó: "Mẹ mong gả thiếp về vườn - Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh". Theo câu hát đó, cô út tôi được gả theo dượng út về Tiền Giang. Ban đầu, giữa Tiền Giang và Hậu Giang chỉ có quan hệ làm ăn, dần dần có thêm mối quan hệ thân thuộc họ hàng. Người ta đi làm ăn cũng là để thăm nom nhau rồi nghiễm nhiên trở thành khách thương hồ.

Khi tôi kết thúc bài viết này cũng là lúc gió bấc rao ngọn. Tại các vàm sông, các đầu kinh thủy lợi của Bạc Liêu, khách thương hồ đang tất bật khiêng mui ghe xuống xuồng để về quê cho kịp đón Tết. Giờ đây, kinh tế của miền Tiền Giang đã phát triển, nhưng không hiểu vì sao vẫn còn những người nổi trôi, tha phương cầu thực? Giải thích thắc mắc của tôi, một ông lão bới tóc củ tỏi, người Tiền Giang, bảo: "Kinh tế nhà tôi bây giờ khác trước rồi, không cần phải đi làm thuê nữa. Nhưng hễ tới mùa gió chướng là cái "máu lang bạt kỳ hồ" nó lại nổi lên nôn nao, thế là lại xuống xuồng rong ruổi về miền Hậu Giang. Gặt thuê và mua bán hàng trên ghe là cái cớ để đi chơi, để thăm người cũ, chốn cũ ấy mà!". Nghe ông lão nhắc tới cái "máu lang bạt kỳ hồ" tôi mới nhớ ra. Châu thổ sông Cửu Long chằng chịt sông ngòi, lũ chúng tôi mới 7 - 8 tuổi đã nhảy ùm xuống sông, áp lồng ngực chồm lên ngọn sóng, gọi là giỡn sóng. Nào có hay, chính lúc ấy, cái hồn của sông nước đã nhập vào hồn người, làm nên cái máu lang bạt trên sông nước. Xưa kia, khách thương hồ ra đời từ dòng máu ấy, nó giúp họ nối liền hai miền Tiền Giang và Hậu Giang, để làm nên cái thẳm sâu của văn minh sông nước Nam Bộ.

PHAN TRUNG NGHĨA

Có thể bạn quan tâm