Kể chuyện về người mua tranh cho Bảo tàng mỹ thuật

Kể chuyện về người mua tranh cho Bảo tàng mỹ thuật

1. Ông sinh năm 1918, năm nay đã gần cửu thập, vậy mà tiếng nói, tiếng cười vẫn sang sảng như chuông, chỉ tiếc là ông hơi nặng tai. Khi nghe ra một câu hỏi mà người hỏi gần như phải quát lên, mặt ông nở một nụ cười rất khoái trá. Nhưng nếu câu hỏi đó ngược về chuyện cũ, thì có khi ông vừa kể mà mắt đã rưng rưng...

Thời trẻ, ông là một "công tử" đam mê rất nhiều thú chơi nghệ thuật. Cùng với anh trai Lê Thiết và em trai Lê Trường, ông lập ra đoàn cải lương Tố Như diễn ở rạp Hý viện phố Hàng Bạc. Tháng 5-1945, mấy anh em họ Lê đã bố trí cho cán bộ Việt Minh vào diễn thuyết trong rạp. Lần đó, các chiến sĩ ta đã hạ sát một tên sĩ quan Nhật (đang xem hát, thấy Việt Minh định chạy đi báo) ngay tại cửa rạp. Sáng hôm sau, bọn Nhật đến điều tra, chỉ có mình ông ở lại đối phó, lúc ấy ông tin chắc rằng mình sẽ bị bắt đi thủ tiêu...

Ông học nghề ảnh năm 18 tuổi, năm cậu ruột ông mua lại hiệu ảnh Khánh Ký ở Hà Nội. Chỉ sau đó mấy tháng, một mình ông chu du khắp dải Đông Dương với chiếc máy ảnh. Và sau đó là cuốn sách ảnh du khảo đầu tiên do ông và một người cậu chụp ra đời có tên là Dọc đường Trường Sơn. Trong đó, phần ảnh Angkor Vat, Angkor Thom là do ông chụp. Có lẽ đó là những bức ảnh đầu tiên đã dẫn ông tới việc say mê chụp những tư liệu mỹ thuật cổ Việt Nam sau này...

Ông gọi họa sĩ Lê Phổ là chú ruột, khi còn thanh niên, ông theo người chú này đến chơi rất nhiều phòng khách ở Hà thành, quen biết khá nhiều họa sĩ.

Sau này, tuy làm việc ở Bảo tàng Mỹ thuật với nhiệm vụ nhiếp ảnh, nhưng ông cùng nhà phê bình Hải Yến (phòng tư liệu) đã mua về cho bảo tàng rất nhiều tranh của các họa sĩ Đông Dương. Bởi vì ông biết những bức tranh ấy đang nằm ở đâu...

2. Bức đầu tiên ông mua cho Bảo tàng Mỹ thuật là kiệt tác Em Thúy của Trần Văn Cẩn tại nhà ông Đỗ Huân. Hồi ấy, Bảo tàng Mỹ thuật chưa có nhiều tranh, cứ mỗi khi đi triển lãm nước ngoài lại phải mượn tranh từ các bộ sưu tập tư như Đức Minh, Đỗ Huân. Khi biết ông Đỗ Huân ngỏ ý muốn bán bức Em Thúy, ông Vượng báo ngay với Bảo tàng Mỹ thuật rồi mời giám đốc Nguyễn Đỗ Cung đến thẩm định và mua. Bức Em Thúy được mua với giá 300 đồng (tiền lương công chức mới ra trường khi đó khoảng 56-64 đồng).

Họa sĩ Tô Ngọc Vân có vẽ một bức thiếu nữ "nude" nằm trên hoa sen, cỡ tranh khoảng 60 - 1,2m. Ông Vượng biết bức tranh ấy nằm ở nhà ông Mai Văn Hàm ở Phủ Doãn. Nhưng khi ông tìm đến thì không thấy bức tranh đâu nữa, có lẽ đã bị hủy (thời đó tranh "nude" còn bị cấm). Đó là bức tranh đẹp mà ông rất tiếc. Nhưng bù lại, con rể của chủ nhà là bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng đã tặng bức Hai thiếu nữ và em bé (ảnh bên) cũng của Tô Ngọc Vân để ông đem về cho bảo tàng. Bức này nằm trong số ít ỏi những tác phẩm của họa sĩ Tô Ngọc Vân, hiện vẫn được bày trang trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật.

Thiếu nữ là bức tranh duy nhất của họa sĩ Lê Phổ ở Bảo tàng Mỹ thuật, do ông mua lại được từ một vị bác sĩ tên Ý ở Quán Thánh. Bức này vẽ vợ của ông bác sĩ.

Vài năm trước, khi sang Pháp thăm chú, ông còn được họa sĩ Lê Phổ tặng một bức vẽ thiếu nữ tắm, mà phải rất kỳ công ông mới đem  được ra khỏi đất Pháp (Chính phủ Pháp có luật chống "chảy máu” nghệ thuật, cấm đem tác phẩm của các danh họa ra khỏi đất Pháp).

Còn phải kể đến hai bức tranh lụa Gia đình thuyền chài của họa sĩ Lương Xuân Nhị và Thiếu nữ bên hoa cúc của nữ họa sĩ Nguyễn Thị Nhung. Hai tác phẩm này ông mua lại cho bảo tàng từ gia đình một bác sĩ quen ở Tăng Bạt Hổ và luật sư Nguyễn Mạnh Tường.

Nhưng đáng kể nhất là ông đã đổi được bộ bình phong Cây ráy (vẽ hai mặt trên sáu tấm sơn mài lớn) của Nguyễn Gia Trí về cho Bảo tàng Mỹ thuật. Số là sau ngày miền Nam giải phóng, ông lên Đà Lạt chơi, thấy có bộ tranh của Nguyễn Gia Trí ở phòng khách UBND tỉnh. Hỏi chuyện ra mới hay UBND cũng đang muốn thay bộ bình phong này vì nó vẽ... toàn thiếu nữ. Ông liền đặt vấn đề đổi cho UBND tỉnh tranh tuyên truyền của bảo tàng để lấy bộ tranh của Nguyễn Gia Trí, vì ở tỉnh treo tranh Cách mạng phù hợp hơn. Thế là từ đó, Bảo tàng Mỹ thuật có được một bộ bình phong đồ sộ và cũng là một kiệt tác của danh họa Nguyễn Gia Trí vẽ trước Cách mạng...

3. Quá trình tìm mua tranh cũng là lúc ông lặn  lội khắp các di tích cổ để chụp ảnh. Mà có những bộ ảnh bây giờ trở nên vô giá vì di tích ấy đã mất đi, hoặc biến dạng.

Thí dụ như pho tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở, sau khi ông chụp vài hôm thì Mỹ ném bom phá tan tành. Để chụp những chi tiết chạm khắc trên kèo đình, chùa ở góc trực diện, nét sâu, nổi căng khối, ông thường mượn bàn gỗ trong dân rồi kê chồng lên cao tới 5, 6m. Rồi một mình ông tay thì cầm đèn măng- sông, tay thì cầm chân máy, máy ảnh ngoắc ở cổ, leo lên chồng bàn cập kênh đu đưa như nghệ sĩ xiếc.

Ông Nguyễn Đỗ Cung thường dặn dò nhân viên giữ tư liệu ảnh hồi đó rằng mỗi tấm phim 66 này có thể phải đổi bằng một mạng người. Đó là cách ông Cung "cảnh cáo" cái tính ham nghề của ông Vượng. Và ông Vượng đã phải "trả giá" cho máu liều vì nghề ấy bằng một cái chân gãy lúc chụp ở chùa Thầy...

Ông Vượng bảo: “Lúc ấy mình còn thanh niên nên máu quá". Tôi cười: “Những năm 1960, thì cụ đã ngoài 40 rồi, còn thanh niên gì nữa". Nhưng ông bị nặng tai nên không nghe rõ...

Có thể bạn quan tâm