Huyền thoại Đồng Lộc trong ký ức người đội trưởng máy xúc

Để hiểu thêm về Ngã ba Đồng Lộc, chúng tôi tìm đến một nhân chứng lịch sử. Người đã có mặt tại Ngã ba Đồng Lộc trong thời khắc nóng bỏng nhất, ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ông được biết với tên gọi: cảm tử quân Uông Xuân Lý.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ giản dị tại phường Trần Phú, Tp Hà Tĩnh là một người đàn ông tóc bạc trắng, dáng người nhỏ nhắn. Hình như khói lửa chiến tranh  làm cho ông già trước tuổi. Nhấp chén trà trong tay, câu chuyện về Ngã Ba Đồng Lộc cứ thế tuôn trào, như hẳn nó là một mạch nguồn âm ỉ trong con người cảm tử quân ngày ấy... 

Tháng 3 năm 1968, địch mở đợt oanh kích đầu tiên vào Đồng Lộc. Sau một thời gian ngắn, bị máy bay địch cày xới dữ dội, Đồng Lộc tan hoang. Con đường độc đạo chi viện cho miền Nam bị cắt đứt. Đứng trước tình thế cấp bách đó, ngày 13/4/1968 tổ máy ủi do đội trưởng Uông Xuân Lý được lệnh điều từ Kì Anh ra. Lúc đó, ở Kì Anh, địch cũng đánh ác liệt. Đội máy ủi của Uông Xuân Lý đang làm nhiệm vụ làm đường tránh 24 từ Cẩm Trung đi Kì Tây và đảm bảo giao thông đường 1A.

Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải qua Đồng Lộc. Nó được xem là yết hầu, vượt qua được sẽ phân tán ra nhiều tuyến đường đi vào miền Nam nên kẻ địch âm mưu ném bom huỷ diệt nhằm cắt đứt sự chi viện sức người, sức của của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa với tiền tuyến lớn miền Nam. Chỉ riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1968 không quân địch đã trút xuống 48.600 quả bom các loại.

Ở Ngã ba Đồng Lộc lúc bấy giờ có rất nhiều đơn vị tham gia chiến đấu: Thanh niên xung phong, bộ đội, bộ binh và 2 tổ máy ủi luôn thường trực làm nhiệm vụ. Những ngày ấy, địch đánh tập trung chủ yếu từ Cầu Bùng trở vô nhưng ở Đồng Lộc là ác liệt nhất. Máy bay thả bom suốt ngày, không lúc nào ngơi. Vừa dứt tiếng bom lại một loạt đạn pháo nổ.  Đồng Lộc trông như một chảo bom khổng lồ. Có những đêm, trời đầy sao chi chít sáng không soi rõ mặt người. Không ánh đèn, chỉ thi thoảng có ánh pháo sáng. Đồng Lộc từ xa yên tĩnh đến lạnh lùng là thế nhưng lại gần cứ thấy rầm rì tiếng người, tiếng cuốc, tiếng xẻng, tiếng máy xúc, máy ủi rào rào làm việc không mệt mỏi. Thanh niên, bộ đội, bộ binh, máy xúc, máy ủi làm việc cật lực. Con đường mới bị bom Mỹ cày xới, hố bom nối tiếp hố bom  tan hoang giữa ban ngày nhưng thật diệu kì, chỉ trong một đêm con đường đã được làm phẳng, nguyên vẹn như cũ. Đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền tuyến liền một mạch qua đoạn đường vừa mới lấp trông như những con kiến khổng lồ.

Tổ máy ủi ở tại xóm Nam Phong, Thượng Lộc trong các nhà dân đã đi sơ tán. Cả tổ sinh hoạt rất nề nếp  theo một thời gian biểu quy định sẵn: 5h30 phút tối chuẩn bị máy móc, ăn tối xong là đi làm đến 1h sáng mới về nghỉ. Khi thì san lấp hố bom, khi thì làm đường tránh  về muộn nhưng sáng ra ai cũng dậy sớm vệ sinh cá nhân xong là bắt đầu học văn hoá.

Hồi đó phong trào học văn hoá văn nghệ ngay trên chiến trường được tổ chức rất rộng lớn, trở thành một hoạt động không thể thiếu được ở Đồng Lộc. Lớp học giã chiến, bàn ghế không có. Một người chỉ một cuốn sổ nhưng rất nghiêm túc. Có khi học say sưa đến quên cả giờ ăn trưa, nắng cháy gắt ở trên đầu vẫn ê a đánh vần từng chữ một.

Đáng khâm phục nhất là các o thanh niên xung phong. Với các o, học chữ còn khó hơn cả đếm bom và san đường trong những đêm tối đen như mực. Cầm cuốc, cầm xẻng quen rồi. Giờ bàn tay cầm bút cứ lóng ngóng rung rung không viết nổi. Con chữ bướng bỉnh lệch hết cả hàng này sang hàng khác.

Khó khăn, gian khổ là thế nhưng họ sống rất có kỉ luật và nghiêm khắc. Sống gấp, không có thời gian để nghỉ ngơi. Buổi  ngày họ tổ chức học văn hoá cho những người chưa biết chữ. Họ ngồi tập trung trước sân hè, bên gốc tro già hay dưới tán cây xanh mát là có thể tổ chức ngay được một lớp học giã chiến.

Uông Xuân Lý còn nhớ như in hình bóng bé nhỏ của cô giáo “nghiệp dư” Trần Thị Kim Cúc ( còn gọi là “Cúc nhỏ” ở C7) đêm đêm sau khi đi làm ngoài trận địa cùng đồng đội về  vẫn miệt mài xem lại bài vở để sáng ra lại thành cô giáo, cầm tay những - học - trò - đồng- đội của mình nắn nót viết những con chữ đầu tiên.

Tụi nhớ mói m?t trận cân não...bỏc Uông Xuân Lý k?. Đứng trước trận đó, bỏc đã phải đấu tranh rất nhiều để chiến thắng chính mình, để vượt qua cả nỗi sợ hãi và hơn cả, là vượt qua cái chết. Đó là ngày 13-6-1968, đoàn xe vận tải gồm 100 chiếc chở lương thực, đạn dược men theo đường mòn Hồ Chí Minh vào miền Nam, đến Đồng Lộc thì bị lộ. Địch đánh ráo riết ngay tại cung đường Truông Bồn- Ngã ba Đồng Lộc, thả một loạt bom nổ chậm. Nhưng lệnh của cấp trên phải thông được xe ngay trong đêm nay.

Trong tình thế cấp bách đó, Uông Xuân Lý nhìn khắp mọi người, trong đầu anh thoáng nghĩ ngay đến cái chết. Công việc lần này khác hẳn mọi ngày, cái khó của nó là làm sao tìm ra được quả bom tử thần đang nằm lẩn khuất đâu đây giữa đống đất đá đổ nát đó. Một người đi là một người chết. Hai người đi, xác suất thành công cũng chỉ vậy, không tăng lên tí nào. Vậy ai sẽ đi đây?

Câu hỏi bức bách này làm Uông Xuân Lý rối trí. Anh bần thần một lúc rồi quyết định xin đi. Dẫu biết đó là một việc vô cùng nguy hiểm nhưng anh nghĩ đến đồng đội mình. Những người đã có gia đình, đã làm bố. Gia đình họ sẽ thế nào nếu mất đi trụ cột của họ. Điều đó khiến anh vững tâm hơn trong quyết định của mình. Trong phút dây ngắn ngủi đó, hình ảnh người mẹ già thân thương hiện ra khiến anh day dứt. Anh nhắn với đồng đội “ Nếu tôi chết, các đồng chí đừng báo vội về cho gia đình. Mẹ tôi già yếu, sợ bà không chịu nổi tin mất con. Hãy đợi đến lúc nào đó thích hợp mới báo tin cho  mẹ tôi”.

Uông Xuân Lý đứng đó, im lặng nhìn bầu trời, mặt đất còn trơ lại những hố bom chưa lấp, những quả bom chưa nổ được cắm cờ hiệu chi chít cả cung đường, lại nhìn đồng đội đang đứng trước mặt anh. Họ đang làm lễ truy điệu sống cho anh- một chàng trai trẻ 28 tuổi đầu đang chuẩn bị đi vào một trận đánh mới. Một trận đánh chỉ có một mình là cảm tử.

Trong thời khắc ngắn ngủi đó, anh nghĩ đến lời của Thủ trưởng Ban đảm bảo giao thông Đồng Lộc Nguyễn Đình Hiến “Rất kì lạ, cứ giao việc cho Uông Xuân Lý là yên tâm chờ báo tin hoàn thành nhiệm vụ” và lời của Chủ tịch tỉnh Trần Quang  Đạt nói về mình “ Mình là mình nghĩ rồi, mình phải tung con bài át chủ của mình ra” mà trào nước mắt.

Niềm tin của cấp trên quá lớn, hi vọng của đồng đội và những chiếc xe đang khấp khởi chờ thông đường để ra măt trận đang trông chờ vào sự quyết tâm của mình. Đêm đang xuống dần, một mình Uông Xuân Lý nhảy lên máy ủi. Mọi người oà khóc. Anh giữ vững tay lái vận hành xe tiến vào toạ độ lửa. ánh sao sáng trên bầu trời, thi thoảng, pháo sáng lại rộ lên soi rõ khuôn mặt lấm tấm mồ hôi. Uông Xuân Lý quay lại nói với đồng đội, giọng anh rung rung “sẽ ổn thôi, không sao đâu” rồi cho máy đi thẳng.

Nhiều tiếng đồng hồ trôi qua. Ngồi trên chiếc máy ủi nặng nề, Uông Xuân Lý đã không còn sợ hãi nữa. anh suy xét tỉ mẩn những  tình huống có thể xảy ra một cách cụ thể và nhanh chóng đặt ra phương án tác chiến. Nếu mình gặp quả bom ngay trên đường mình sẽ làm gì? nếu nó rơi xuống hố bom hay găm sâu xuống lòng đất mình sẽ xử lí ra sao? Mình làm thế nào để sống được cả người, lẫn máy?…Uông Xuân lý vận hành máy hết tiến lại lùi, chiếc máy phục sâu trong đất, mồ hôi ướt đẫm cả vạt áo, chảy thành dòng trộn lẫn với đất trên người anh. Thần kinh anh căng thẳng, đã nhiều tiếng đồng hồ trôi qua rồi, đêm đã quá nửa rồi mà vẫn chưa tìm ra quả bom trốn kĩ đó. Bỗng anh nghe “kịch ” một tiếng. Toàn thân lạnh cả người, Uông Xuân Lý ngỡ mình như bay lên. Bao mệt mỏi bỗng chốc tan biến. Trời đầy sao, gió thổi vi vút trên đầu và hàng loạt pháo sáng lơ lửng làm anh sững lại, rồi lấy hết can đảm tiếp tục thẳng tiến. Đẩy quả bom lẫn đất đá ra phía bờ ruộng, anh cài số lùi, cúi người xuống sát cabin và đạp hết ga thoát khỏi cửa tử…

Rốt cuộc là đã ổn. Khi quả bom tử thần bị đẩy lùi khỏi mặt đường cách 30m cũng là lúc trời khuya lắm rồi. Anh thở phào nhẹ nhõm buông mình trong vòng tay đồng đội rồi ngước nhìn đoàn xe đang chầm chậm đi qua đoạn đường một cách bình yên. Đoàn xe lại tiếp tục lên đường vào Nam chiến đấu

Bác Lý dừng kể, uống một ngụm nước rồi mỉm cười. Đôi mắt long lanh nước. Một lúc sau bác kể tiếp:

Tháng 12-1968, đang đánh Đồng Lộc, Bộ Giao thông có lệnh cấp cho ta 8 máy ủi loại C100, 6 máy ủi bánh lốp, 8 máy lu, 2 máy xúc. Uông Xuân Lý lúc đó đang bị thương nhưng cũng bị cử đi tiếp quản máy vì chưa ai quen máy bằng anh cả. Một chuyến đi gian nan và vất vả không kém. 10 anh em đi bộ men theo đường biển từ Thạch Vĩnh cho đến Cầu Bùng bị oanh kích 3 lần nhưng chỉ bị thương nhẹ. Lòng khấp khởi trông ra đến Hà Nội làm thủ tục để xuống Hải Phòng lấy máy về phục vụ chiến đấu. Có những chiếc máy này ở Đồng Lộc thì công việc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Xuống Hải Phòng, 24 chiếc máy mới do chính tay Uông Xuân Lý điều khiển lái lên tàu( anh em cùng đi lúc bấy giờ chưa có ai được tiếp xúc với các loại máy này nên không làm được) rồi lên tàu về Hà tĩnh.

Sau chuyến đi ấy, đội cơ giới nhập với đoàn xe chủ lực thành Công ty cơ giới. Uông Xuân Lý lại xin cấp trên cho về xưởng để có điều kiện học hỏi và tiếp xúc được nhiều hơn với các loại máy mới.

Bác Lý dừng kể, đôi mắt lắng lại bồn chồn: “ Đã 40 năm qua rồi tôi vẫn không lúc nào có thể quên được Đồng Lộc. ở đó vinh quang nhiều nhưng mất mát nhiều qúa. Dẫu biết đã là chiến tranh, mất mát là quá đỗi bình thường nhưng có những sự hi sinh thầm lặng đến nỗi rơi vào quên lãng.

Chúng tôi, những người đã chiến đấu cho Đồng Lộc đang sống đây đã là một hạnh phúc rồi, được chứng kiến bao đổi thay của Đồng Lộc mà không thể nào ngờ được. Những ngọn núi hồi nào bị bom cày, cây cỏ không thể nào mọc nổi giờ lên xanh những rừng thông, hoa cỏ.

Nhìn tượng đài những người đồng đội hiên ngang tượng trưng cho cả thế hệ thanh niên xung phong hồi ấy,  nhìn bức phù điêu cao sừng sững giữa trời Đồng Lộc mà thương cho những người đồng đội bị vùi sâu trong từng thước đất không tìm thấy xác.

Nghe tin mười o thanh niên xung phong ở C2 hi sinh cùng một lúc, chúng tôi bàng hoàng. Chúng tôi ở trong lòng Đồng Lộc, gần đấy mà cũng xa xôi đấy nào có biết gì nhau, chỉ khi được điều máy ủi  đi tìm mười cô mới giật hết cả mình. Húc bom, húc mìn nào có ngại ngần gì, giờ chỉ sợ húc vào người đồng đội mà trước đó, nào có được biết mặt nhau. May sao khi sang đến nơi rồi, các đồng đội đã tìm đưa được các o trở lại. Thương mỗi o Cúc lặng lẽ nơi nào trong đất đỏ quê hương.

Tôi còn nhớ như in  o thanh niên xung phong tên Xuân ở C7 hy sinh ngay trong ngày kết nạp Đảng. Đạn găm ở bụng, đứt ruột vẫn hát vang khúc “Quốc ca” oai hùng để rồi đến đêm thì mất. Đồng đội tôi, anh Võ Xuân Thành và anh Đặng Xuân Tiết bị thương ngày 25-12-1968 trong khi đang làm nhiệm vụ thông đường cho xe của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua thì bị bom từ trường hất tung lên cả người cả máy cao đến 20 mét. Rơi xuống hố bom ngất phải điều trị lâu dài cũng chưa làm được chế độ thương tật.  Cuộc sống anh em bây giờ cũng đang còn khó khăn rất nhiều.

Còn chuyện phong anh hùng cho tôi bây giờ không nên nhắc đến nữa. Được sống đến ngày hôm nay đã là quý rồi. Lúc đó, ở Đồng Lộc ai nghĩ mình sẽ sống. Những đồng đội của tôi, những người đã từng vinh dự nhận được Huân chương chiến công hạng nhì năm 1969 là các anh: Trương Quang Hiển, Dương Xuân Hàm, Võ Tá Hà, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Chính Giao, Đậu Xuân Đoan, Đặng Xuân Tiết, Nguyễn Văn Quế, Võ Xuân Thành.

Họ đã cùng tôi đồng cam cộng khổ trong suốt 180 ngày đêm ở Đồng Lộc. Không có họ tôi cũng không hoàn thanh được nhiệm vụ của mình. Được phong anh hùng hay không thời gian cũng đã qua rồi, thanh niên như tôi ngày ấy giờ cũng đã 69 tuổi . Không biết  giờ đây, đồng đội tôi một người một nơi, ai còn ai mất. Hôm trước, anh Võ Xuân Thành và anh Đặng Xuân Tiết vào làm chế độ đã tìm đến nhà tôi. Anh em gặp nhau ngậm ngùi, chỉ mong muốn làm sao chúng tôi có thể cùng nhau, tay trong tay về lại Ngã ba Đồng Lộc, ngồi trên đỉnh núi Trọ Voi mà ngắm nhìn toàn cảnh Đồng Lộc thêm một lần nữa”.

Câu chuyện của chúng tôi cứ thế kéo dài cho đến khi trời đã gần trưa. Bác Lý giờ đã về hưu, tham gia làm bí thư chi bộ xóm một thời gian rồi cũng nghĩ vì sức khỏe không đảm bảo. Giờ đây, bác ở nhà chơi đùa cùng cháu nhỏ. Tiễn tôi ra xe, bác không quên ghi số điện thoại để tiện liên lạc lại với bác. Lên xe đi rồi, tôi cứ bần thần mãi. Những mong ước giản dị của bác Uông Xuân Lý cùng đồng đội mong về đông đủ tại chiến trường xưa liệu có thực hiện được, khi đã 40 năm qua rồi, những người đó ai còn, ai mất?

Tháng Bảy, Đồng Lộc vẫn ngút ngàn thông xanh. Dòng người vẫn đổ về đây, nơi có tượng đài chiến thắng, có nhà bia tưởng niên TNXP toàn quốc để tưởng nhớ về một thời hào hùng đạn bom của đất nước mình mà nghe văng vẳng câu hát trong veo rằng “Trời mô xanh bằng trời Can Lộc”.

Có thể bạn quan tâm