Là một điểm đến trong tua du lịch tại Liên hoan Trà Quốc tế lần thứ nhất - Thái Nguyên, Việt Nam 2011 (tổ chức từ ngày 12 đến 15-11-2011), những ngày này cuộc sống ở La Bằng như sôi động, khẩn trương hơn và lòng người cũng thêm phần hân hoan trước một sự kiện kinh tế - văn hóa. Ba cửa ngõ vào trung tâm xã là La Lạc, Dốc Mon, Non Vẹo đã được trai tráng trong làng dựng lên ba cổng chào để chào đón du khách. Chủ tịch Hội Nông dân xã, ông Lương Văn Minh, cho tôi biết: "Xã La Bằng có mười xóm, cả mười xóm đều được tỉnh công nhận là làng nghề sản xuất chế biến chè. Trong thời gian diễn ra Liên hoan, bà con mười xóm sẽ đều trưng biển giới thiệu sản phẩm chè của làng mình".
Theo mỗi trục đường về các xóm ngõ, nơi nào chúng tôi cũng thấy thoảng thơm vị chè lên hương. Bên ấm trà sóng sánh xanh, ông Vũ Ngọc Vĩnh ở xóm Ðồng Tiến tâm sự: "Lần đầu tiên bà con được đón tiếp khách trong nước, khách quốc tế đến thăm. Gia đình tôi đã chuẩn bị những ấm chè ngon nhất để đãi đằng và bán, nếu du khách có nhu cầu. Với người dân xã La Bằng đây là cơ hội tốt để quảng bá thương hiệu, nhưng không vì thế lại tranh thủ phóng đại chất lượng sản phẩm, "hữu xạ tự nhiên hương" mà anh!". Và dù mọi người đang tíu tít lên hương chè, chủ nhà vẫn mời chúng tôi vào uống thử. Hộp chè vừa hé, đã cảm nhận được mùi cốm non lan tỏa, từng cánh chè roong roong rơi vào ấm, và lúc rót nước sôi, mùi thơm của chè như đặc quánh trong không gian, quyến rũ. Ông Vĩnh cho biết: "Nhà có bốn sào chè, nhờ đất tốt, thuận nước tưới nên năng suất chè đạt 18 kg chè búp khô/sào/lứa. Mỗi năm tôi thu hoạch được gần sáu tạ chè búp khô, trừ chi phí đầu tư, mỗi năm lãi hơn 60 triệu đồng". Bên bàn trà ấm cúng, được nghe bà con ở xã La Bằng kể chuyện làm chè, tôi đã bị hấp dẫn bởi sự thăng trầm của loại cây hái lá lấy tiền này.
Ðứng trước con ngõ nhỏ, nghe tiếng rào rào của chè khô trong máy, tiếng các mẹ, các chị râm ran trò chuyện, tôi lại tưởng như thấy cả hương thơm của chè sánh lại giữa một buổi chiều đầu đông. Trong ngôi nhà khang trang của gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc, các thành viên Tổ hợp tác Chè an toàn La Bằng đang mỗi người một việc, mê mải nhưng nụ cười luôn hồn nhiên, tươi tắn. Bà Lương Thị Hà giải thích: "Lên hương là công đoạn cuối cùng của quá trình sao và sấy chè. Công đoạn này không đòi hỏi độ nhiệt cao, nhưng phải biết lượng nhiệt như thế nào cho vừa, thấy cánh chè lên mầu mốc trắng, có mùi thơm của nếp cốm là được". Thường là có đất thì ai cũng có thể làm được chè. Nhưng để làm ra được sản phẩm chè ngon lại cần đến sự khéo léo của đôi bàn tay và kinh nghiệm của mỗi người. Ðó là đôi bàn tay biết cảm nhận được nhiệt độ, độ ẩm của chè ở từng công đoạn, từ đó điều chỉnh củi lửa trong lò. Ở vùng đất dưới chân núi Tam Ðảo này, ông Trần Trọng Bình, xóm Ðồng Ðình được bà con đặt tên là "người có đôi bàn tay vàng". Ông làm chè cực khéo bởi hình như trời phú cho ông sự cần mẫn và đôi bàn tay của nghệ nhân. Tham gia các ngày hội chè của tỉnh, hay tại nhiều cuộc thi sao chè, ông Bình luôn là người được trao giải cao nhất, được trao tặng danh hiệu "Ðôi bàn tay vàng". Thấy chúng tôi hỏi bí quyết giúp ông thành công trong chế biến chè, ông suy nghĩ giây lát rồi xòe đôi bàn tay nhám đen nhựa chè, bảo: "Tất cả ở đôi bàn tay của mình".
Năm 1981, hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, ông Bình thấy đất đai quê hương còn hoang hóa nhiều, nên hằng ngày ông tranh thủ phát cỏ, chặt cây, dọn bãi lấy đất trồng chè. Mỗi năm một mảnh, dần dà ông đã có 1 ha chè trồng hạt, năng suất từ 15 đến 18 kg chè khô/sào/lứa. Vậy nhưng, khi cả 1 ha chè hạt đang cho thu hoạch ổn định, thì ông Bình quyết định phá dần để trồng thay thế bằng chè cành giống mới. Ðó là vào năm 2000, ông Bình đến Trung tâm giống cây trồng để học hỏi kỹ thuật, mua "hom" chè giống về trồng. Lấy ngắn nuôi dài, đến vụ chè năm 2009 ông Bình đã có 1 ha diện tích chè cành, chủ yếu giống LDP1, Bát Tiên, Kim Tuyên, Keo Am Tích, Hoa Nhật Kim, Long Vân, Phúc Thọ. Cũng vào những năm này, nhiều hộ gia đình trong xã chuyển dần diện tích chè già cỗi và đất trồng cây cho hiệu quả kinh tế thấp sang trồng những loại chè cành giống mới. Ðến nay, diện tích chè giống mới của xã đạt hơn 50 ha, trong đó có hơn 30 ha chè đã cho thu hái. Ông Lương Văn Minh kể lại với vẻ tự hào: "Các loại chè cành như Hoa Nhật Kim, Keo Am Tích, Long Vân được ví là chè dành cho người giàu, giá bán của các loại chè này luôn cao gấp hơn hai lần so với chè giống trung du".
Chè La Bằng mới tạo được thương hiệu từ khoảng năm năm nay. Thương hiệu có được là do người dân trong xã cùng quyết tâm làm, không sử dụng các hóa chất độc hại, khi thu hái, chế biến phải giữ gìn vệ sinh không đổ bừa bãi... Bên chén trà sóng sánh xanh, chúng tôi biết thêm là trên khu đất thuộc đèo Khế, núi Ðiệng của xã hiện còn có bãi chè cổ thụ, nhiều cây có đường kính rộng tới 50 cm. Mới đây, người dân trong xã còn phát hiện trên đó có bãi chè ra búp đỏ, hái về hãm nước chè xanh uống rất ngon. Hỏi gốc tích, lai lịch cây chè trên vùng đất La Bằng, các cụ cao tuổi cũng chỉ đưa ra giả định là hàng trăm năm trước, chim muông tha hạt chè về đây, thả xuống đất, hạt chè nảy thành cây. Người dân địa phương đi rừng lấy gỗ, săn thú cũng chỉ hái lá về đun uống. Ðến đầu thế kỷ 20, cụ Khuông cho người lên rừng lấy hạt chè về trồng ở gò Treo Trống. Ðến những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, theo tiếng gọi của Ðảng, bà con từ Bình Lục (Hà Nam) lên đây khai phá đất trồng chè. Nông dân trồng chè nhưng hằng tháng xếp hàng nhận gạo Nhà nước trợ cấp. Quan điểm "ăn để trồng chè" chưa tính toán khi có chè thu hái thì bán cho ai. Vì thế mà có dạo vùng đất này, nhà nào cũng rất nhiều chè, nhưng tiền đong gạo lại chẳng có. Giờ thì càng làm ra nhiều chè càng tốt, cuộc sống cứ theo đó mà đi lên.
Bên nương chè của xóm Lau Sau, nơi di tích thành lập cơ sở Ðảng đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên năm 1936, một bác nông dân đã nói với tôi: "Dân La Bằng vinh dự là quê hương cách mạng, tự hào được sống ở vùng quê mà trời đất ban tặng cho sản vật chè. Người La Bằng không làm chè theo số lượng, không vì lợi nhuận trước mắt, không quảng cáo rầm rộ. Chè làm ngon, người dùng trà khắp nơi khắc tìm đến". Chè La Bằng lặng lẽ chiếm lĩnh thị trường, khẳng định giá trị bằng chất lượng sản phẩm. Nhưng để hương trà La Bằng lan tỏa đến mọi miền đất nước, được đóng gói theo những chuyến tàu vượt biển, theo máy bay đến với người Việt Nam ở nước ngoài, đến với người Nga, người Mỹ, rồi Nhật Bản, Trung Hoa, mấy thế hệ người La Bằng phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt. Chuyện kể rằng, dưới chân Tam Ðảo có dòng nước mát thuần khiết được chắt lọc từ lòng núi, chạy dọc qua các nương chè của xã, nhờ nguồn nước tinh khôi đầu nguồn tưới tắm nên chè ở đây có hương thơm, mang vị chát mà đượm ngọt, người uống thấy sảng khoái, minh mẫn. Khi pha trà, rót ra chén, thấy phía trong cái vành tròn sành sứ thoảng vờn sương khói của hơi nước, uốn hình trong đó như có nàng tiên nữ nhẹ nhàng bay lên, mơ hồ xa xăm. Vì thế ở La Bằng, những người phụ nữ có đôi bàn tay nghệ nhân, họ làm ra chè ngon nổi tiếng.
Một trong những nữ nông dân ở La Bằng làm chè năng động được bà con ngợi khen là bà Lương Thị Hà. Nhiều năm nay, bà Hà đầu tư thâm canh 12 sào chè, trong đó có bốn sào của gia đình, và tám sào thuê mượn đất làm thêm. Ðể thu hái kịp lứa, bà thuê năm lao động, mức tiền công 100.000 đồng/người/ngày. Khi chúng tôi hỏi về nguồn thu nhập từ cây chè, bà Hà bảo: "Tổng thu được 120 triệu đồng/năm, trừ các chi phí như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công thu hái,... lãi khoảng 80 triệu đồng/năm". Ông Lương Văn Minh, gật đầu xác nhận: "Trong xã, hầu hết các hộ trồng chè đều có cuộc sống ổn định, trung bình hằng năm mỗi hộ để ra được từ 30 đến 40 triệu đồng. Ðặc biệt, hơn 5% số hộ mỗi năm để dư được số tiền từ 80 triệu đồng trở lên, như gia đình bà Hà, ông Bình. Với người ở thành phố thì chưa biết thế nào, nhưng với người nông dân chúng tôi, đó là cả một tài sản". Trò chuyện với ông Lương Văn Minh, chúng tôi được biết: Ðầu năm 2011, ông Lương Thanh Nhã, Giám đốc Công ty Cổ phần Hùng An Trà Việt Nam, trụ sở tại Sài Ðồng (Long Biên, Hà Nội) đã về đây đặt thu mua chè của bà con mang về Hà Nội kinh doanh. Lý do ông Nhã đến La Bằng vì ông được bè bạn biếu chè uống Tết. Là người rành rẽ hương vị chè, nên ngay sau khi uống thử, ông đã không quản xa xôi, ngược đường về La Bằng, đến với người dân, xem nông dân hái chè, chế biến chè, rồi đăng ký trực tiếp thu mua chè với một số hộ. Tuy chỉ là hợp đồng miệng giữa doanh nhân và nông dân, song Hùng An Trà Việt Nam bắt đầu gắn bó khăng khít hơn với La Bằng.
Chợ chè La Bằng họp 12 phiên một tháng. Trung bình mỗi phiên có từ bảy đến mười xe ô-tô tải từ các nơi về nhập chè. Chợ chè La Bằng còn có cả chè ở nơi khác mang đến bày bán, nên giá cả cũng khác nhau. Ông Ðỗ Xuân Thìn, Trưởng xóm Kẹm cho biết: Người đi buôn chè rất rành, chỉ nhìn mầu nước trà, ngửi hương trà là họ phân biệt chính xác từng loại chè ở những đâu mang đến, thậm chí họ còn biết được đâu là chè chăm bón bằng phân chuồng, phân hóa học hoặc chè bị quá lửa khi chế biến. Thế mới hay là chẳng có cách quảng cáo nào tốt hơn bằng cách làm chè thật sự có chất lượng. Ðã chạng vạng về chiều, trên những trục đường về ngõ xóm, chúng tôi gặp các cô bác nông dân, những chàng trai cô gái tất bật với gánh chè nặng vai. Ngay sau bữa cơm chiều là bếp lò của dân vùng chè lại lên lửa, máy sao, máy vò chè lặp lại từng vòng quay, đều đặn. Và chè lại lặng lẽ tỏa hương, đem đến cho cuộc đời những gì tinh túy nhất. Với Liên hoan Trà sắp tới, người dân La Bằng lại có dịp được tỏ lòng hiếu khách qua sản phẩm chè do đôi tay mình làm ra. Và cũng từ đây, một nét đẹp của văn hóa dân tộc lại có dịp lan tỏa đến mọi miền.