Hồng quân Liên Xô trong chiến tranh giữ nước vĩ đại


Ngày 1-9-1939, sau khi gây ra vụ khiêu khích hèn hạ tại thị trấn Glây-vích trên biên giới Ba Lan, phát-xít Đức ồ ạt xâm lược  nước này, sau đó liên tiếp xâm lược các nước: Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Pháp, Nam Tư và Hy Lạp... Trong đó, 92 sư đoàn Pháp, 22 sư đoàn Bỉ, 18 sư đoàn Hà Lan, 12 sư đoàn Anh và 6 sư đoàn Na Uy, lọt vào tay nước Đức phát-xít. Hít-le đã dùng tổng lực kinh tế của 11 nước châu Ấu bị chúng chiếm đóng có diện tích gần 2 triệu km2 và hơn 129 triệu người, làm tiềm lực kinh tế, quân sự trang bị cho đội quân Đức.

Để chuẩn bị xâm lược Liên Xô, trong 2 năm 1940 - 1941, nền công nghiệp chiến tranh Đức được dành ưu tiên sản xuất máy bay và xe tăng.  Sản xuất máy bay mỗi năm cung cấp từ 10.000 đến 12.000 chiếc. Năm 1940, phát-xít Đức chế tạo 1.400 chiếc (xe tăng) hạng trung và 800 xe tăng hạng nhẹ, nhưng năm 1941 đã cung cấp 2.900 xe tăng hạng trung và 2.300 xe tăng hạng nhẹ và xe bọc thép. Sản xuất vũ khí từ năm 1934 đến năm 1940 tăng gấp 22 lần, tính đến tháng 5-1941, ngành sản xuất vũ khí có tới hơn 5 triệu người, gần 6.500 xí nghiệp nước ngoài bị chiếm đóng sản xuất phục vụ quân đội Đức. Kế hoạch "Bác-ba-rô-xa" xâm lược Liên Xô, được chuẩn bị bí mật, kỹ càng do Hít-le ký duyệt ngày 18-12-1940, dưới tên gọi là "Chỉ thị 21", huy động tới 7.330.000 tên, bao gồm 214 sư đoàn thiện chiến nhất có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược khắp châu Ấu và hơn 4.300 xe tăng, 47.200 đại bác và súng cối, 4.980 máy bay chiến đấu để ngay ngày đầu tiên của chiến tranh - ngày 22-6-1941, bất ngờ tràn vào lãnh thổ Liên Xô và đã tiến sâu vào khoảng 50 đến 60 km. Sang ngày hôm sau, chúng tiến sâu tới 130 km và đến ngày 30-6-1941, Hồng quân, mặc dù đã đánh trả ngoan cường bọn xâm lược, nhưng do lực lượng quá chênh lệch bị đẩy lùi về bờ sông Tây Đờ-vi-na và Đờ-nhép. Thời kỳ đầu chiến tranh, bọn phát-xít Đức nắm thế chủ động về chiến lược và tác chiến, chúng khống chế trên không và trội hơn Hồng quân về xe tăng và pháo binh. Do đó, đến mùa hè năm 1942, chúng đã chiếm đóng các vùng kinh tế rộng lớn của Liên Xô (nơi trước chiến tranh có gần 80 triệu người sinh sống, cung cấp 1/3 sản lượng công nghiệp, 47% diện tích đất nông nghiệp và khoảng 1/2 số gia súc). Hồng quân bị tổn thất lớn về người và vũ khí, trong khi cỗ máy chiến tranh của phát-xít Đức trở thành khổng lồ nhờ huy động lực lượng tại những  quốc gia châu Ấu mà chúng đã chiếm đoạt dễ dàng.

Ngay từ năm đầu cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, trong trận bảo vệ Mát-xcơ-va (từ 30-9-1941 đến 20-4-1942) cao điểm là tháng 11 và 12-1941, bọn phát-xít đã tập trung 74 sư đoàn thiện chiến (hơn 1,8 triệu quân), gần 14.500 đại bác, súng cối, 1.700 xe tăng và gần 1.400 máy bay tiến công ào ạt, hòng nhanh chóng chiếm Mát-xcơ-va, mặc dù lực lượng ít hơn quân Đức (chỉ có 1,2 triệu người, 7.600 đại bác và súng cối, 900 xe tăng, 677 máy bay) Hồng quân đã chặn đứng và đập nát đòn tiến công của kẻ thù, gây cho chúng tổn thất lớn, buộc chúng phải dừng lại trước ngưỡng cửa thủ đô Mát-xcơ-va. Sau đó, trong thời gian phản công của mặt trận Ca-li-nin, mặt trận phía tây và sườn phải mặt trận tây-nam, Hồng quân trong điều kiện mùa đông giá lạnh đã đẩy lùi quân Đức cách xa thủ đô yêu quý của mình từ 100 đến 250 km, tiêu diệt 11 sư đoàn xe tăng, 4 sư đoàn cơ giới và 23 sư đoàn bộ binh (chỉ tính riêng lục quân bọn phát-xít đã mất 168.000 tên) chôn vùi huyền thoại về "Quân đội Đức vô địch" trên các cánh đồng ngoại thành Mát-xcơ-va. Và cũng từ đây, tinh thần quân phát-xít giảm sút mạnh.

Không khuất phục trước kẻ xâm lược, bằng những nỗ lực phi thường, chỉ đến giữa năm 1942, nhân dân Liên Xô lúc đó đã vượt lên gian khổ, đau thương, hy sinh do bọn phát-xít gây ra, nhanh chóng khôi phục lại tiềm lực công nghiệp bị mất. Vì vậy, chỉ trong 2 năm 1942-1943 đã gửi ra mặt trận 44.600 xe chiến đấu, (trong khi đó nước Đức chỉ sản xuất được 18.200) cung cấp nhiều hơn quân Đức 20.000 máy bay. Tới tháng 1-1945, Hồng quân đã được trang bị nhiều hơn địch gấp 3 lần về xe tăng và pháo tự hành gấp 7,3 lần về máy bay.

Trận đánh lớn nhất trong năm 1942 là trận Xta-lin-grát (từ ngày 17-7-1942 đến ngày 2-2-1943) đã đập tan âm mưu của quân đội phát-xít Đức hòng tiến  tới sông Vôn-ga, chiếm các đầu mối giao thông nối liền trung tâm nước Nga với vùng Cáp-ca-dơ. Trong chiến đấu phòng ngự, Hồng quân đã ngoan cường trước lực lượng to lớn của kẻ thù, làm cho chúng bị kiệt sức và bị bao vây. Ngày 19-11-1942 thực hiện kế hoạch tiêu diệt đội quân phát-xít gần Xta-lin-grát, Hồng quân, từ mờ sáng đã mở đầu bằng 80 phút bắn phá của gần 3.500 đại bác, mở đường cho các hướng tiến công, kết quả 22 sư đoàn và 160 đơn vị độc lập của Tập đoàn quân dã chiến 6 và Tập đoàn quân xe tăng 4 phát-xít bị bao vây. Hồng quân tiếp tục chiến đấu đến ngày 2-2-1943, làm cho cụm quân Đức nằm trong vòng vây bị chia cắt thành: cụm bắc và cụm nam. Ngày 31-1-1943, cụm nam do Thống chế Pao-lút chỉ huy đầu hàng. Tổng cộng trong trận Xta-lin-grát, quân phát-xít bị mất hơn 800.000 tên, gần 2.000 xe tăng, hơn 10.000 đại bác, xấp xỉ 3.000 máy bay quân sự các loại.

Trận "Vòng cung lửa Cuốc-xcơ" (từ ngày 5-7 đến ngày 23-8-1943), kéo dài gần 2 tháng, diễn ra hết sức căng thẳng và ác liệt, được mệnh danh là trận đánh xe tăng lớn nhất, Hồng quân đập tan sức tiến công và tiêu diệt 30 sư đoàn Đức (trong đó có 1.500 xe tăng, 3.000 đại bác, hơn 3.700 máy bay và gần 500.000 binh sĩ). Chiến thắng của Hồng quân trong trận Cuốc-xcơ là đòn báo trước thất bại không thể tránh khỏi của nước Đức phát-xít, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của các nước châu Ấu đang bị phát-xít Đức chiếm đóng.

Trận phòng thủ Lê-nin-grát (kéo dài từ ngày 10-7-1941 đến ngày 8-9-1944), trong suốt 900 ngày đêm không quên đó, trên bờ sông Nê-va, thành phố Lê-nin-grát đã tổ chức nhiều trận đánh oanh liệt, tiêu diệt và chặn đứng kẻ thù mạnh hơn gấp bội, dù bị bao vây thiếu thốn, hy sinh rất lớn lao, nhưng đã giữ vững thành phố thân yêu và đập tan mọi mưu đồ thâm hiểm của kẻ thù phát-xít, thể hiện rất rõ tinh thần dũng cảm và ý trí quyết chiến quyết thắng của nhân dân Xô-viết quyết tâm bảo vệ Tổ quốc.

Các trận đánh lớn khác trong chiến tranh giữ nước vĩ đại như: Trận vượt sông Đờ-nhép (từ ngày 25-8 đến ngày 23-12-1943), trận đánh trên vùng hữu ngạn U-crai-na (từ ngày 24-12-1943 đến ngày 17-4-1944), Chiến dịch tiến công Bê-lô-ru-xi-a (từ ngày 23-6 đến ngày 29-8-1944), Chiến dịch I-a-xi-Ki-si-nhốp (từ ngày 20 đến ngày 29-8-1944), Chiến dịch Vi-xla-Ô-đe (từ ngày 12-1 đến ngày 3-2-1945) và nhiều chiến dịch khác, đã làm cho phát-xít Đức liên tiếp thất bại.

Phối hợp Hồng quân trên các chiến trường chính, phong trào Du kích xuất hiện ngay từ những ngày đầu quân đội Đức xâm lược lãnh thổ Liên Xô, cuối năm 1941 đã có hơn 2.000 đội Du kích với hơn 90.000 chiến sĩ yêu nước chiến đấu trong các vùng bị Đức tạm chiếm. Năm 1942, lực lượng du kích đông tới 220.000 người và đến năm 1943 lên đến trên 550.000 người cầm súng chống quân xâm lược, tính tổng cộng trong những năm chiến tranh đã có hơn 1.000.000 chiến sĩ du kích. Lực lượng du kích đánh phá bọn phát-xít suốt ngày đêm trong vùng địch hậu  buộc quân Đức phải giữ riêng 10% quân số để đối phó. Hoạt động của du kích đã ngăn chặn, cầm chân bọn phát-xít. Vì vậy, chúng chỉ thu hồi được 7% sản lượng than vùng Đôn-bát, không quá 15% sản lượng khai thác gỗ và gần 28% ngũ cốc (so với sản lượng trước chiến tranh). Đặc biệt là "cuộc chiến tranh đường ray" đã phá hơn 200.000 thanh ray, đánh đổ hơn 21.000 đoàn tàu, phá hủy hơn 17.000 đầu tàu và 171.000 toa tàu, đốt cháy đánh sập 12.000 cầu đường sắt và đường bộ tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng nghìn binh sĩ, viên chức Đức trong vùng địch hậu, làm cho chúng ăn không ngon ngủ không yên.

Con đường người Chiến sĩ Hồng quân tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là con đường dài đầy gian khổ hy sinh, qua nhiều nước châu Ấu, châu Á, giải phóng nhiều dân tộc thoát khỏi thảm họa phát-xít. Lịch sử Thế giới không bao giờ quên hình ảnh nhân dân các nước: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Trung Quốc, Triều Tiên và các nước khác chào đón các chiến sĩ Hồng quân đến giải phóng cho họ. Hơn 1 triệu công dân Xô-viết đã ngã xuống trong các trận đánh giải phóng hoàn toàn hoặc một phần 11 nước châu Ấu và sau đó góp phần giải phóng Trung Quốc, Triều Tiên khỏi thảm họa phát-xít. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ tính riêng trong các đội du kích của phong trào kháng chiến ở các nước châu Ấu, đã có tới 40.000 công dân Xô-viết.

Trận công phá Béc-lin (từ ngày 16-4 đến ngày 9-5-1945) là trận đánh kết thúc chiến tranh ở châu Ấu, Hồng quân đã nhanh chóng đè bẹp sự chống cự tuyệt vọng của các đơn vị thuộc cụm quân "Vi-xla" và "Trung tâm" có gần 1 triệu quân được trang bị: 10.400 đại bác, súng cối, 1.500 xe tăng và pháo tự hành, 3.300 máy bay chiến đấu. Tham gia chiến dịch giải phóng Béc-lin có: Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô Ghê-oóc-ghi Giu-cốp), Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô Côn-xtan-tin Rô-cô-xốp-xki) và Phương diện quân U-crai-na 1 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô I-van Cô-nép), một phần lực lượng Hạm đội Ban-tích (Tư lệnh Đô đốc Vla-đi-mia Tơ-ri-bút), Đội tàu sông Đờ-nhép, Binh chủng Phòng không...

Phía Hồng quân có 2,5 triệu quân, gần 42.000 đại bác, súng cối, hơn 6.250 xe tăng và pháo tự hành, 7.500 máy bay chiến đấu. Với sức mạnh áp đảo và nghệ thuật chiến tranh giải phóng Xô-viết, chiến dịch Béc-lin, Hồng quân đã đập tan 70 sư đoàn bộ binh, 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới, phần lớn máy bay của không quân, bắt làm tù binh gần 480.000 tên, thu và phá hủy toàn bộ đại bác và súng cối, xe tăng và pháo tự hành của quân đội phát-xít. Ngày 30-4-1945, hai chiến sĩ Xô-viết là: Mi-khai-in E-go-rốp và Me-li-tôn Can-ta-ri-a đã treo lá cờ Chiến thắng trên nóc nhà Quốc hội Đức, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát-xít Đức.

Ngày 11-2-1945, tại Hội nghị Cờ-rưm, ba cường quốc Đồng minh lúc bấy giờ  là: Liên Xô, Mỹ, Anh đã ký một Hiệp định, trong đó nói rằng sau khi nước Đức phát-xít đầu hàng và kết thúc chiến tranh ở châu Ấu thì khoảng hai, ba tháng sau Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống phát-xít Nhật. Ngày 6 và 9-8-1945, máy bay Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống các thành phố của Nhật Bản là Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki, gây hủy diệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, làm chết rất nhiều dân thường, đồng thời cũng gây ảnh hưởng xấu tới quân đội Nhật. Nhưng, nhà sử học người Anh G.Éc-man nói: Quân đội Nhật Bản vẫn còn sức chiến đấu và đầy quyết tâm chống cự lại. Bởi vì trong thực tế, đạo quân Quan Đông là lực lượng chủ yếu của Nhật đông gần 1 triệu tên có 2/3 số xe tăng, 1/2 số đại bác gồm các sư đoàn tuyển chọn của quân đội Nhật Hoàng vẫn toàn vẹn, đang chiếm đóng tại Mãn Châu Lý và Triều Tiên, tại biên giới Liên Xô và Mông Cổ, quân Nhật đã xây dựng 17 vùng quân sự kiên cố.

Thực hiện sự cam kết với các nước Đồng minh và  thực hiện nhiệm vụ giải phóng các dân tộc châu Á đang bị phát-xít Nhật chiếm đóng, Hồng quân huy động lực lượng 1,5 triệu người, có 26.000 đại bác và súng cối, gần 5.500 xe tăng và pháo tự hành và gần 4.000 máy bay chiến đấu đã triển khai 11 tập đoàn quân binh chủng hỗn hợp, 2 đội quân tác chiến, 1 tập đoàn quân xe tăng, 3 tập đoàn quân không quân, 4 quân đoàn không quân độc lập và các lực lượng của Hạm đội Thái Bình Dương, Đội tàu chiến trên sông A-mua, các đơn vị biên phòng. Tất cả các đơn vị tập trung tại Viễn Đông, được chia thành 3 phương diện quân là: Ngoại Bai-can, Viễn Đông 1 và Viễn Đông 2. Các chiến sĩ quân đội Mông Cổ cùng các chiến sĩ yêu nước chống phát-xít Nhật xâm lược tại các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác tích cực tham gia chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngày 9-8-1945, quân đội Xô-viết tiến công Mãn Châu Lý, đổ bộ vào nam Xa-kha-lin và quần đảo Cu-rin. Mặc dù vấp phải sự chống cự quyết liệt, tuyệt vọng của phát-xít Nhật, song Hồng quân đã đánh bại đội quân Quan Đông, bắt gần 600 tên làm tù binh (trong đó có 148 tướng tá) thu rất nhiều chiến lợi phẩm, giải phóng vùng đông-bắc Trung Quốc, bán đảo Liễu Đông, Nam Xa-kha-lin, quần đảo Cu-rin và Bắc Triều Tiên tới vĩ tuyến 38. Việc Hồng quân đánh bại đội quân Quan Đông của phát-xít Nhật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, chính Thủ tướng Nhật Xút-du-ki lúc đó phải thừa nhận đã đẩy Nhật Bản vào tình hình hoàn toàn không có lối thoát và do đó Nhật Bản không thể tiếp tục chiến tranh được nữa. Thắng lợi của Hồng quân tại châu Á đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác lúc đó bị Nhật chiếm đóng. Ngày 2-9-1945, trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Ma-mo-rơ và Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhật I-o-xít-di-rô U-met-du ký văn kiện đầu hàng không điều kiện; tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 12-10-1945, những người Pa-thét Lào cũng tuyên bố thành lập nước Lào tự do.

Thời gian đã qua đi 60 năm, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra trên thế giới này, song những tội ác của chủ nghĩa phát-xít vẫn bị loài người tiến bộ lên án. Chính vì vậy, công lao vĩ đại của các chiến sĩ Hồng quân Xô-viết cứu loài người thoát khỏi thảm họa phát-xít sẽ mãi mãi được ghi nhận trong lòng nhân dân thế giới

Có thể bạn quan tâm