Hồn lửa cà ràng

Những sáng tinh mơ, mẹ đã lui cui nhóm lửa. Trưa đứng bóng, bếp lửa lại sáng lên với mâm cơm mới chờ cha đi ruộng về. Chiều tà, bếp lửa ấy tạo nên những ánh khói lam chiều. Bếp lửa quê đã và mãi là hình ảnh, tình yêu, ký ức với biết bao thế hệ. Giữa bộn bề cuộc sống, người ta dần thay những bếp củi ngày nào bằng bếp từ, bếp điện, bếp ga. Khói bếp lam chiều ngày một mỏng. Nhưng ở vùng quê nghèo Phú Mỹ, Phú Tân (An Giang) miệt sông nước Cửu Long vẫn còn đó một nghề truyền thống: nắn cà ràng ông Táo.

Hoàn thiện vĩ lò trước khi đưa đi nung.
Hoàn thiện vĩ lò trước khi đưa đi nung.

Bếp lửa yêu thương

Với nhà nghèo, cái bếp đôi khi chỉ là ba viên đá ghép lại cũng thành. Tốt hơn thì lò củi với ba chân kiềng đơn giản. Hơn thế là những bếp lò cà ràng to đẹp... Mái nhà đất Việt chỉ có sự sống khi bếp lửa được nhóm mỗi ngày, và chính nó lại tạo nên bản sắc của một nét văn hóa. Có lần, trao đổi cùng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ Nguyễn Hữu Hiệp, ông nói, bếp lửa chính là hiện thân nếp sống gia đình. Bởi vậy, người ta thường nói đến cụm từ bếp lửa yêu thương hay giữ lửa gia đình. Sự hài hòa, tình yêu thương cũng từ bếp lửa, mâm cơm gia đình mà thành hình, thành sự. Với tôi, một người con Nam Bộ, một thế hệ trẻ đất Việt lớn lên trong những ngày đổi mới, ít nhiều vẫn gắn bó chặt chẽ với hình ảnh của những bếp củi quê nghèo ngày cơm ít, cháo nhiều nhưng vẫn nồng ấm yêu thương thì bếp lò cà ràng vẫn là hình ảnh thiêng liêng.

Theo kết quả khảo cổ di chỉ Óc Eo thuộc nền văn minh Phù Nam ở một số địa phương như: Gò Tháp (Đồng Tháp), thị trấn Óc Eo (An Giang)... đã tìm được những mảnh vỡ của cà ràng. Điều này cho thấy cà ràng đã ra đời hàng ngàn năm trước.

Ở vùng quê nghèo nằm giữa hai dòng sông Tiền, sông Hậu, miền Phú Tân (An Giang), làng nghề bếp củi cà ràng ông Táo chẳng biết có tự bao giờ, chỉ biết nó bắt đầu phát triển sung nhất vào những năm đầu thống nhất, đời sống còn khó khăn, thiếu thốn. Những lò đất nung vừa rẻ tiền, vừa bền đẹp đã trở thành món hàng hóa được tiêu thụ rất tốt, giúp làng nghề ngày một khấm khá. Bà Nguyễn Thị Á, ngụ xã Phú Thọ (Phú Tân, An Giang), năm nay đã ngót nghét bảy mươi, là một trong những người cao niên trong nghề chia sẻ: "Ai mà nhớ nó có từ lúc nào. Tui chỉ biết rằng, khi nhỏ đã thấy mấy chú, mấy chị nắn nó bán khắp tứ xứ rồi. Nó dễ làm, lại rẻ tiền nên ai theo nghề cũng được, nghề này vậy là phát triển thôi. Giữ nghề cũng chính là giữ mâm cơm. Còn nghề thì còn lửa, còn cơm!". À, cái sự giải thích rất ư là nông dân ấy khiến tôi cũng hết sức ngỡ ngàng.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp mốc phát triển nghề cà ràng nơi đây chưa có tư liệu nào chỉ rõ. Duy biết rằng, bà con học nghề từ những người buôn xứ Cao Miên, Thái-lan sang đây hồi thế kỷ 17 đến 18. Họ mang theo những chiếc lò ba chân mà mình thường gọi là cà ràng, bán cho bà con nhiều ở Tân Châu, Châu Đốc, Hòn Đất... Với sự khéo léo và nắm bắt nhanh nhạy, bà con Khmer vùng Tri Tôn đã nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật cùng với kỹ thuật làm gốm nung vốn có để tạo ra những cái cà ràng đầu tiên. Thương lái miệt Phú Tân thấy vậy nên học nghề và nhờ nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú cùng bàn tay khéo léo trời cho của người dân, từ thị trấn Phú Mỹ dọc lên Mỹ Thọ (Phú Tân) dần dần đã trở thành làng nghề từ ấy". Những chủ lò lớn ngày ấy đến nay, ngoài hai lò lớn nhất của bà Nguyễn Thị Á và Nguyễn Thị Khuynh thì còn có lò ông Tư Trí, lò Út Sử, Sáu Nương, Út Thủy, Hữu Nghị mỗi lò tương ứng ra khoảng vài thiên (đơn vị tính tương đương mười nghìn sản phẩm)/mẻ.

Hoa tay chân đất

Dọc tỉnh lộ 953 từ thị trấn Phú Mỹ về xã Phú Thọ, trên đường, trong sân, sau vườn, gầm nhà... đâu đâu cũng thấy những bếp lò đang hoàn chỉnh phơi đầy. Những bếp lò duyên dáng, đủ kích cỡ trở thành niềm cảm hứng cho biết bao nhiếp ảnh gia về nét đẹp của làng quê Việt phương nam. Hỏi cô Á cách làm lò (bếp) mới hay, nó tuy đơn giản nhưng lại là một kỹ năng vô cùng độc đáo. Chỉ có bốn chữ thôi: điêu luyện cùng khổ luyện. Lò cà ràng có rất nhiều loại, chia theo tỷ lệ kích cỡ và tên gọi như:Lò thượng, lò trung, lò hạ, lò mọi, lò kiểu, lò than, lò ống khói... Mỗi loại lò lại có cách làm khác nhau. Tuy nhiên, tất cả những công đoạn ấy đều phải được người thợ làm bằng tay. Và đặc biệt hơn cả, tất cả những khâu trọng yếu nhất mang lại nét đẹp, cái hồn, nét duyên phải do chính người phụ nữ làm.

Bà Nguyễn Thị Khuynh, nghệ nhân cao tuổi cười: "Kể mần sao cho mà hết được, tùm lum công đoạn cháu ơi! Nào đầu là trộn đất rồi đạp manh đất ra thành từng tấm áo. Rồi rải tro khuôn, đắp manh, nắn khuôn, năm quay mình ông Táo, vô vĩ, đạo gọt, làm mâm... Rồi vào lò đun từ hai đến ba ngày/mẻ. Mỗi công đoạn một người. Tất cả phải nhịp nhàng, chính xác, mỗi bếp đều là thành quả tập thể". Ít nhất là 18 công đoạn, tất cả đều được quay, nắm bằng tay.

"Đất làm cà ràng đâu phải ở đâu cũng có. Đất sét đậm thì dễ nứt khi đun. Đất pha tạp nhiều lại không thể cho cà ràng đẹp. Tỷ lệ pha trộn giữa đất, tro, trấu, cát... phải đúng tỷ lệ. Chỉ những nghệ nhân lâu năm là chủ lò mới nắm bí quyết pha trộn để tạo nên thương hiệu lò đẹp, bán chạy hay không", cô Khuynh từ tốn.

Tại xưởng sản xuất của cô Khuynh hôm ấy, hàng chục thợ đủ mọi lứa tuổi, mà phụ nữ chiếm đến 80% đang mải miết làm. Chị Dịu, bàn tay đầy đất tram xám đục, nón lá che nửa khuôn mặt đẹp chất Nam Bộ cười duyên: "Nghề này làm cũng nhàn, nhưng khi đã làm thì say lắm! Mỗi chiếc lò mình phụ trách một công đoạn, nhưng phải hiểu hết những công đoạn khác vì nó là sản phẩm tập thể. Anh đạp manh mà áo đất chỗ mỏng, chỗ dày thì vào khuôn làm sao nắm áo tạo hình lò đẹp được. Nắn chân cà ràng phải đều, đẹp và chỉnh vì không thể thì khi ráp vĩ vào, đưa vào lò sẽ bị vênh chân, làm sao sử dụng... Phải đam mê, mới thành công chú ơi". Nhất là đoàn kết để giữ mãi làng nghề trường tồn theo năm tháng dẫu rằng bếp lò của ngày một vắng dần trong nhà bếp của bà con đất Việt. Tôi đắn đo, gặng hỏi mãi mà chưa tìm được lời giải thích "vì sao có đến 80% thợ lò là nữ".

Thì "tại tụi tui nấu bếp nên biết nắn làm sao cho đẹp, cho vừa ý, chớ hỏi vậy, làm sao trả lời?".

Bếp cà ràng và hồn đất Việt

Mỗi chiếc lò cà ràng ông Táo xứ Phú Tân thành phẩm được chuyển khắp nơi từ nam chí bắc. Giá cả mỗi chiếc xuất xưởng chỉ từ 5.000 đến 7.000 đồng/chiếc. Quá rẻ so với công sức của hàng chục công đoạn của bà con. Ấy vậy mà bà Nguyễn Thị Á bảo: "Giá cả vậy là hợp lý rồi! Người ta bây giờ giàu, ai xài bếp củi nữa! Chỉ còn người quê mới sử dụng thôi. Đã nghèo, bán giá mắc làm sao mua nổi! Với lại, hàng năm, cứ Tết ông Táo về trời người ta lại đập bỏ bếp cũ thay bếp mới cho Ông bà Táo nhằm đón cái mới, cái tốt lành về nhà. Giá mắc quá, bà con nghèo ai kham nổi".

Một thuở khẩn hoang lập ấp, của những tháng ngày mùa nước nổi Cửu Long, trên chiếc xuồng ba lá hay chiếc ghe tam bản, ghe bầu, hình ảnh người chồng "chống mũi chịu sào", sau lái, người vợ tỉ mẩn nhóm bếp cà ràng nấu bữa cơm chiều đã trở thành biểu tượng của người dân Nam Bộ:

"Con nước lớn cha chống xuồng

Con nước ròng mẹ nhóm bếp cà ràng đợi gió

Con nước rong chảy tràn mùa nước nổi

Vàng bông điên điển Châu Giang"

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp tâm sự: "Dù xuất tích từ đâu chăng nữa, chắc chắn một điều, những bàn tay tài hoa nơi đây đã, đang và sẽ mãi lưu giữ nét đẹp của văn hóa sống, văn minh ẩm thực, sông nước của người Việt Nam nói chung, bà con Nam Bộ nói riêng qua chiếc cà ràng ông Táo".

Ngày nay, giữa muôn vàn sự phát triển, dẫu rằng, không thể khư khư hoài cổ mãi. Nhưng, giá trị tinh thần của bếp lò cà ràng ông Táo thật sự đã gắn liền với phong tục, tập quán qua nhiều thời kỳ, chẳng thể nhạt phai... Làng cà ràng ông Táo Phú Tân, cùng những người thợ nông dân chân chất tài hoa nơi đây sẽ mãi mãi là những người giữ ấm cho sự trường tồn bếp củi cà ràng trong văn hóa Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm