Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo, tên khai sinh là Tạ Thái An. Ông sinh ngày 25-10-1921, tại thôn Cao, xã Bảo Khê, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Cha ông làm nghề thợ may nổi tiếng ở quê nhà, vì nhiệt tình ủng hộ cách mạng, nên bị địch truy bức phải rời ra Hòn Gai rồi chuyển lên Thất Khê, Lạng Sơn để sinh sống. Năm 13 tuổi, ông được cha gửi về Hà Nội học ở trường tư thục Thăng Long, nơi đã đào tạo ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Ông thuộc thế hệ học sinh của các thầy dạy lúc đó là Ðặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Minh Giám...
Là học sinh,ông tham gia và tìm hiểu về cách mạng nên đã bị nhà cầm quyền thực dân Pháp bắt. Sau khi tra khảo, vì không có bằng chứng nên chúng buộc phải thả ông. Lần bị thực dân Pháp bắt trở thành bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông. Về Lạng Sơn, ông tích cực tham gia hoạt động ở Ðảng bộ huyện Tràng Ðịnh.
Ðầu năm 1941, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước chỉ đạo cách mạng, Người đã chọn ông cùng một số thanh niên yêu nước như: Hoàng Văn Thái, Ðàm Quang Trung, Vũ Lập, Nam Long, Thanh Phong, v.v. sang Trung Quốc đào tạo về quân sự để chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Cuối năm 1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, ông được phân công về Lạng Sơn để xây dựng cơ sở du kích, làm chính trị viên trung đội. Mới một tuổi quân, ông đã chỉ huy đội du kích tiêu diệt đồn Pò Mã nổi tiếng (5-1945) và tham gia Cách mạng Tháng Tám cùng nhân dân cướp chính quyền ở huyện Tràng Ðịnh, Lạng Sơn.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được điều về Hà Nội. Với cương vị Tư lệnh Chiến khu 3, ông bắt tay ngay vào việc tiễu phỉ ở vùng đông bắc. Lúc này phong trào cách mạng trên cả nước đang sôi sục, riêng vùng Móng Cái - Hà Cối còn nằm dưới sự kiểm soát của bọn thổ phỉ. Là người chỉ huy sâu sát và gan dạ, ông cùng một cán bộ đã tìm cách vào tận hang ổ của bọn thổ phỉ để trinh sát. Sau khi điều tra nắm tình hình trở về, ông tổ chức bộ đội chiến đấu, đồng thời kết hợp với địch vận, giành lại chính quyền về tay nhân dân. Tháng 11-1946, thực dân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, ông cùng các cán bộ của thành phố tổ chức quân và dân Hải Phòng kiên cường chiến đấu. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Liên khu 3...
Năm 1949, ông được cấp trên điều về làm Tư lệnh Liên khu 4 và đến năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Ðại đoàn trưởng Ðại đoàn 304, một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự chỉ huy của ông, Ðại đoàn đã lập được nhiều chiến công vang dội trên các chiến trường Trung Lào, Cánh Ðồng Chum, trận đánh ở chùa Cao (Ninh Bình) và những trận đánh ngăn chặn quân địch, bảo vệ vững chắc hậu phương Khu 4 để ta tập trung nhân tài, vật lực cho chiến dịch Ðiện Biên Phủ...
Ðầu năm 1954, ông được giao làm Hiệu trưởng Trường bổ túc quân chính Bắc Sơn của quân đội ta, đến năm 1956, Trường chuyển thành Trường Quân sự Trung cao và sau là Học viện Quân sự. Năm 1962, có một thời gian ông lại tham gia học tập tại Trung Quốc. 12 năm sau ngày hòa bình lập lại trên miền bắc, vừa nghiên cứu khoa học, vừa giảng dạy, ông cùng với các đồng đội và những học viên vừa từ trong chiến trường ra học tập đã đúc kết được nhiều bài học quý báu cho nền nghệ thuật quân sự cách mạng.
Năm 1966, ông nhận nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh Mặt trận B3 Tây Nguyên. Trên mặt trận nóng bỏng và ác liệt này, tài thao lược và mưu trí sáng tạo trong nghệ thuật chỉ huy quân sự của ông ngày càng được bộc lộ.
Năm 1967, với cương vị Tư lệnh Mặt trận B3 Tây Nguyên, ông đã chỉ huy chiến dịch Ðắc Tô 1 giành thắng lợi to lớn. Kế thừa những kinh nghiệm từ chiến dịch Plây Me năm 1965 và chiến dịch Sa Thày năm 1966, lần này ông cũng vận dụng cách dụ địch vào thế trận của ta. Dựa vào kinh nghiệm và phán đoán quy luật, thủ đoạn hành động của địch, với một lực lượng hơn 3 trung đoàn của ta, ông đã bày một thế trận nhiều tầng, nhiều lớp, đón đánh địch bằng "chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt", đây là một chiến thuật mới được sáng tạo nhằm hạn chế sức cơ động của quân Mỹ...
Ðầu năm 1970, ông cùng với Ðảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương mở chiến dịch Ðắc Xiêng. Trong chiến dịch này, mưu kế của ta là đánh Ðắc Xiêng để gọi địch ở Tân Cảnh ra cứu, rồi tiêu diệt quân cứu viện bằng đường bộ và đường không. Trong trận Ðắc Xiêng, quân ta đã vây tròn, vây chặt cả bốn mặt bằng chiến thuật "vận động bao vây liên tục". Ðây cũng là một chiến thuật mới, sáng tạo, nhằm hạn chế hỏa lực sát thương của địch khi bao vây chặt quân địch, sau đó liên tục công kích cho đến khi dứt điểm làm chủ trận địa.
Năm 1972, ông chỉ huy chiến dịch Ðắc Tô - Tân Cảnh (Ðắc Tô 2) giành thắng lợi lớn. Không gian chiến dịch gần trùng hợp với chiến dịch Ðắc Tô 1 năm 1967, nhưng lần này đối tượng tác chiến là quân nguỵ có sự chi viện tối đa của hỏa lực Mỹ. Mưu kế chiến dịch là nghi binh lừa địch, bằng cách mở hai con đường cơ giới phía tây thị xã Kon Tum. Ðây là con đường làm giả nhằm thu hút địch về phía đó, làm cho địch tập trung lực lượng vào thị xã Kon Tum mà để sơ hở Ðắc Tô- Tân Cảnh. Lợi dụng sơ hở này, ta mở gấp một con đường quân sự nối vào đường 14 để đưa lực lượng chủ chốt và xe tăng vòng về phía đông Ðắc Tô- Tân Cảnh, là hướng địch không hề ngờ tới. Khi đã tạo được thế trận và thời cơ, quân ta siết chặt vòng vây ngăn chặn cụm thị xã Kon Tum và tập trung lực lượng đột phá cụm Ðắc Tô - Tân Cảnh. Ðịch bị trói chân ở Kon Tum không thể phản kích, trong khi toàn bộ quân ở Ðắc Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, cụm phòng ngự phía bắc tỉnh Kon Tum sụp đổ nhanh chóng. Chiến thắng Ðắc Tô- Tân Cảnh góp phần cùng với các chiến thắng của chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Ðông Nam Bộ và "chiến dịch Ðiện Biên Phủ trên không" ở miền bắc trong năm 1972 có ý nghĩa chiến lược quan trọng, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước, còn quân ngụy phải chuyển vào thế phòng ngự chiến lược.
Năm 1974, ông làm Phó tư lệnh Liên khu 5. Cuối năm đó, ông ra Hà Nội dự họp bàn về kế hoạch giải phóng miền nam của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Lúc này, thế của ta đang lên và đang mạnh, địch ngày càng suy yếu. Ðó là thời cơ để Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền nam trong hai năm 1975-1976 và nếu có thời cơ thì giải phóng miền nam trong năm 1975. Ngay sau đó, ông được dự hội nghị mở rộng của Quân ủy Trung ương để quán triệt và triển khai quyết định chiến lược của Bộ Chính trị "Chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch nam Tây Nguyên" và là nơi mở đầu cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ông được giao nhiệm vụ là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, đồng thời là Chỉ huy trưởng trận đánh Buôn Ma Thuột.
Ðây chính là điều mà ông rất tâm đắc vì chọn Tây Nguyên là nơi có dung lượng chiến trường lớn, vừa có rừng núi, vừa có cao nguyên, lại là nơi có đường chiến lược Hồ Chí Minh đi qua. Ở Tây Nguyên lại chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá là chính xác vì là nơi hiểm yếu. Ðiểm trúng cái huyệt đó thì toàn bộ Tây Nguyên và các tỉnh ven biển miền nam Trung Bộ sẽ rung chuyển. Tuy nhiên, mỗi khi nói về điều này, ông luôn nhắc tới sự sáng suốt của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo tài tình của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã tạo cho Tây Nguyên mọi thuận lợi để giành chiến thắng một cách chắc chắn.
Ðó là mưu kế tạo ra một hình thế giàn trận chiến lược-bày binh bố trận, ghìm địch ở hai đầu nam- bắc chiến tuyến là Sài Gòn và Huế- Ðà Nẵng để tạo thế phá vỡ thế phòng ngự Tây Nguyên của địch và sau đó tạo lực bất ngờ tăng thêm cho Tây Nguyên hai sư đoàn.
Lực lượng được tăng cường và bố trí hợp lý, mưu kế của ông và Bộ Tư lệnh chiến dịch nhằm chuyển hóa thế trận: ta yếu thành mạnh. Bằng cách nghi binh lừa địch, ta đánh thật nhưng mà là "thật giả" ở Plây Cu, đã điều được địch trở về Plây Cu. Sau đó, lập tức chia cắt đường, tạo thế cô lập Buôn Ma Thuột. Khi địch mắc vào mưu kế đó, thì ta liền tập trung lực lượng nhanh chóng phá vỡ Buôn Ma Thuột và đón đánh quân phản kích thắng lợi, tạo ra đột biến về chiến dịch. Ðòn điểm huyệt thắng lợi buộc địch phải rút chạy khỏi Plây Cu, Kon Tum. Quân ta liền truy kích và tiêu diệt hoàn toàn quân địch tháo chạy, tạo ra đột biến về chiến lược. Thắng lợi rất lớn đó đã tạo ra đột biến về chiến tranh.
Từ thực tiễn chiến đấu, đến lý luận quân sự được ông khái quát:
Mưu cao nhất là mưu lừa địch,
Kế hay nhất là kế điều địch,
Thế tốt nhất là thế chia cắt địch,
Thời đẹp nhất là lúc địch ít phòng bị.
Mưu sinh ra kế - thế đẻ ra thời,
Ðánh bằng mưu kế - thắng bằng thế thời.
Theo ông, kế hoạch tác chiến càng công phu kỹ lưỡng bao nhiêu, thì thắng lợi càng dễ bấy nhiêu, thế trận càng phức tạp thì tình huống diễn ra càng giản đơn và ông coi đó là biện chứng pháp trong nghệ thuật chỉ huy cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Suốt trên chặng đường trường chinh góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, hành trang ông mang theo là những trang sách mà trong đó chứa đựng hồn non nước, những điều mà ông tâm đắc.
Những chiến thắng trên chiến trường, đặc biệt là chiến thắng Tây Nguyên năm 1975, đòn then chốt quyết định mở đầu đã tạo thế cho chiến dịch gối đầu Huế - Ðà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh kế tiếp được mở ra nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn, bằng các đòn chiến lược Tây Nguyên - Huế, Ðà Nẵng - Sài Gòn, cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Năm 1976, ông lại trở về công việc nghiên cứu và giảng dạy với cương vị Viện trưởng Học viện Lục quân và có một thời gian ông học tập ở Liên Xô. Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ lV của Ðảng, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Ðảng, tháng 11-1981 là Ủy viên chính thức BCH Trung ương Ðảng.
Năm 1977, ông làm Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao, nay là Học viện Quốc phòng.
Năm 1990, ông làm Viện trưởng Viện Chiến lược quân sự Bộ Quốc phòng. Ðến năm 1995, nghỉ công tác quản lý, nhưng ông vẫn tham gia rất nhiều công việc như: Giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sinh, hội thảo khoa học, viết sách, viết báo, các công trình nghiên cứu về khoa học và nghệ thuật quân sự, v.v. Ðồng thời, ông còn giữ các chức danh như: Ủy viên Hội đồng xét duyệt học hàm, học vị; Hội đồng chỉ đạo Bách khoa thư Nhà nước.
Ông là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử và nghệ thuật quân sự được xuất bản. Có những cuốn sách ông viết và xuất bản ngay trên chiến trường đã trở thành cẩm nang cho cán bộ, chiến sĩ trước khi ra trận như cuốn: “Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc” (1969, 1971), “Sự thất bại của sức mạnh phi nghĩa” (1974), “Cách dùng binh” (1975), v.v. Trong đó, có tám cuốn sách là một Cụm công trình được Hội đồng xét Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ đánh giá là: "Ðặc biệt xuất sắc, có giá trị cao về khoa học công nghệ đã được công bố, sử dụng từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học công nghệ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc". Cụm công trình này đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ năm 2005. Ðến nay, số đầu sách của ông đã có 16 cuốn mà ông vẫn còn muốn viết nhiều hơn nữa, để đóng góp vào nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, cũng như những vấn đề mà ông cho rằng dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Ông đã được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều huân chương cao quý khác và được phong học hàm Giáo sư, danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Hơn 60 tuổi Ðảng, dù ở bất kỳ cương vị nào, ông đều luôn giữ vững danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ", sống một cuộc đời trong sạch, giản dị, sâu nặng nghĩa tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương làng xóm, người đảng viên gương mẫu luôn học tập, rèn luyện và tu dưỡng theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, vì sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của dân tộc. Ông thật sự là vị tướng thao lược của nhân dân.
Ngày 8-9-2008, do tuổi cao, sức yếu, ông đột ngột từ trần, để lại lòng tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng chí, đồng đội. Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo mất đi là một tổn thất cho Quân đội, cho đất nước và cho nền khoa học quân sự Việt Nam. Tưởng nhớ công lao và noi gương ông về việc học tập và tu dưỡng theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, cầu mong ông an nghỉ ngàn thu cõi vĩnh hằng.
Phạm Vũ Quỳnh
Thư ký của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo