Họa sĩ Phạm Viết Song sinh ngày 2-1-1917 tại TP Thanh Hóa. Chính quán là làng Vân Bảng, nay là xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, Nam Ðịnh. Ông là cựu sinh viên Trường cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương từ năm 1935 đến 1939. Gần 60 năm nay, ông có tiếng là một nhà sư phạm hội họa, liên tục mở các lớp dạy vẽ cho mọi lứa tuổi và mọi trình độ. Con số học trò qua nhiều thế hệ được ông đào tạo từ những bài vỡ lòng về hình họa đến lúc sử dụng thuần thục chất liệu sơn dầu không thể tính hết, cũng như không thể tính hết bao nhiêu môn sinh từ lò vẽ của ông thi đỗ vào trường, bước vào đời, hành nghề và thành đạt, thành danh, trở thành những họa sĩ, giảng viên ưu tú.
Luôn tâm niệm "Người nghệ sĩ phải trung thực với bản thân mình trong cảm xúc", nên việc được đắm mình trong những phong cảnh thiên nhiên đất nước, được trò chuyện và tìm hiểu cuộc sống của người dân địa phương trên khắp các vùng, miền Tổ quốc đã trở thành "năng lượng" không thể thiếu trong suốt cuộc đời sáng tác của ông. Thời trai trẻ, khi còn là sinh viên Trường cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương, ông đã đi khắp các làng quê Bắc Bộ, rồi đi vẽ ở Huế, Hội An. Những ngày Cách mạng Tháng Tám, đang dạy học tại Huế, ông và một số họa sĩ được giao nhiệm vụ tiếp quản các di tích ở cố đô Huế.
Hơn 20 năm ông phụ trách phong trào mỹ thuật quần chúng của Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội. Ông chính là người vận động và đứng ra tổ chức các lớp tại cơ sở (phố Hàng Buồm, Văn Miếu, Nghi Tàm) trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời mở những lớp hội họa buổi tối ở thành phố với những lớp nâng cao, đào tạo quần chúng. Học viên là những người lao động, công nhân, nông dân, bộ đội, cán bộ, viên chức, học sinh, sinh viên qua chương trình tương đương trung cấp và đại học mỹ thuật.
Trở lại với chuyến đi vẽ mới đây nhất của họa sĩ gần 90 tuổi, họa sĩ Phạm Viết Hồng Lam vẫn chưa hết bồi hồi: "Thật là một chuyến đi không thể tưởng tượng! Trước khi đi sức khỏe của ba tôi đã kém. Chính tôi phải đi cắt 30 thang thuốc để ông uống lại sức. Vậy mà vẫn như mọi lần, ông đã quyết tâm lên kế hoạch đi vẽ là đi. Không bàn cãi. Ðưa tôi 20 triệu đồng tiền bán tranh từ mấy đợt, ông bảo: "Hãy tổ chức cho ba một chuyến đi theo con đường Di sản miền trung".
Những người đánh cá Hồ Tây. |
Và cũng như mọi lần, họa sĩ Lam không thể từ chối trước sự quyết đoán của cha mình. Hai cha con đi tàu hỏa vào Quảng Bình với đích đầu tiên là Phong Nha - Kẻ Bàng. Theo thói quen từ thời trẻ, ông vẽ ký họa bằng bột mầu rất kỹ, nhiều khi là những bức tranh hoàn chỉnh, thu vào đó những cảm xúc trực tiếp trước cảnh vật, con người. Rồi sau đó về nhà ông mới dựng thành tranh sơn dầu khổ lớn. Trong động Bi Ký (Phong Nha), ngồi thuyền bồng bềnh trên mặt nước, họa sĩ Lam thuê dọi đèn lên vách động, cụ Song vẽ liền hai giờ đồng hồ. Sau khi ăn trưa ngoài cửa động, ông vẽ thêm hai bức ở đó. Thật hiếm có ai diễn tả mầu xanh của thiên nhiên tài tình như họa sĩ Phạm Viết Song: mầu xanh biếc của mây trời, những gam mầu lam đủ các sắc độ của núi non trập trùng, mầu ngọc bích trong trẻo của mặt nước,...
Trên đường từ Ðồng Hới ra Quảng Trị, họa sĩ Lam đã đưa ông vào thắp hương ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và Thành cổ Quảng Trị, nơi anh đã từng chiến đấu và không thể quên những đồng đội đã hy sinh. Hai cha con đã khóc. Ở Huế một ngày, hôm sau đi ô-tô qua đèo Hải Vân, 15 giờ đến Mỹ Sơn - họa sĩ Lam kể tiếp - Cái nắng chói chang của vùng bán sơn địa, không một bóng mát. Khu di tích đang được tôn tạo, bụi bay mù mịt. Một ông già gần 90 tuổi đi bộ gần ba giờ từ bến đỗ vào khu vực tháp.
Về nhà thấm mệt, vậy mà hỏi cụ: "Mai ba đi nữa không?". "Có chứ". Họa sĩ Lam cho biết thêm: "Gần chục năm nay, hai cha con đã có những chuyến đi vẽ điền dã liên tiếp: Sa Pa, Mai Châu, Thanh Hóa, Ðồng Hới, Huế, Ðà Lạt, Vũng Tàu,... Tôi chủ trương không vẽ để tận tâm phục vụ bố".
Hôm sau, với giá, mầu vẽ lỉnh kỉnh trên vai, họa sĩ Lam thuê được chiếc Honda 50 cà tàng. Hai cha con vào đến khu tháp Mỹ Sơn lúc 9 giờ sáng. Khoảng hai giờ cụ vẽ xong một bức. Nhiệt độ lên đến gần 38 - 39 độ C. Mồ hôi đổ túa cũng không làm cụ nản lòng. Có một lán nghỉ của công nhân xây dựng gần đó, họ mời hai cha con nghỉ trưa. Mọi người đều kinh ngạc trước sức làm việc của người họa sĩ cao niên và cùng trầm trồ trước ba bức vẽ của ông. Ðây, những khối tháp Chăm rêu phong cổ kính nổi bật giữa trời đất, cỏ cây như những dấu son còn mãi với thời gian. Họa sĩ đưa vào tranh những tương phản sáng tối bằng những mảng mầu lớn chắc khỏe. Người xem thấy trong tranh ông sự tinh tế và vững vàng của một tâm hồn nghệ sĩ không biết già. Ở đó là gam mầu tươi sáng của chính thiên nhiên với ánh nắng nhiệt đới đã được chắt lọc qua mắt nhìn của người họa sĩ. Ở đó là bố cục chặt chẽ của hình khối trên nền cảnh thiên nhiên đã được họa sĩ đắn đo trước khi đặt bút. Ở đó là tình cảm luôn tươi mới mà mỗi lần đặt chân đến là một lần thêm những phát hiện...
Học trò và bạn bè thường rất quý ông bởi tính lạc quan yêu đời và say nghề. Ông hay nói đùa rằng: "Tôi sẽ sống, vẽ và dạy học đến năm 110 tuổi. Ðến lúc đó tôi sẽ tự chống gậy ra đi...". Ðúng là ông đã vẽ và dạy học cho đến những ngày cuối cùng của đời mình. Tin ông ốm nặng và mất vào 15 giờ 15 phút ngày 28-5, tại nhà riêng, đã làm nhiều học trò sững sờ. Ðối với họ, ông chỉ có thể đi vẽ đâu đó vài ngày rồi lại về. Họ mong được ông sửa bài và giảng giải cặn kẽ về luật xa gần, về đường nét, mầu sắc, hình khối. Ngắm nhìn những tác phẩm sơn dầu và pastel của ông treo trên tường, vẫn còn nguyên ánh nắng vàng rực hắt lên những đụn rơm vàng của "Ngày mùa Ðông Anh", không khí tấp nập đông vui trong bức "Chợ Hôm Cửa Nhượng - Hà Tĩnh", bảng mầu xanh với những sắc độ tinh tế của núi rừng trong "Ðường xuống chợ của người Mông", nét cổ kính trầm mặc "Chùa Cầu - Hội An", vẻ quắc thước chắc nịch của "Lão ngư",... và kia, đôi mắt sáng như đang ánh lên nụ cười hóm hỉnh qua cặp kính trắng với tấm palet trên tay, chiếc tẩu không thể thiếu trên miệng trong bức “Tự họa”.
Gia tài ông để lại là những bức tranh, những bài giảng về hội họa, cuốn sách “Tự học vẽ” do ông biên soạn rất công phu và kỹ lưỡng, và hơn cả là một tấm gương về niềm say mê cuộc sống và nghệ thuật.
NGUYỄN THU THỦY