Hạt gạo quê tôi

Lúc tôi còn nhỏ, xong bữa cơm mà vét không sạch chén là bị má tôi rầy. Nếu cơm rơi xuống đất, bà gom lại mang cho gia súc ăn. Không bao giờ má tôi dùng chổi để quét cơm. Má tôi làm công việc ấy bằng động thái thận trọng đến thành kính, miệng bà lẩm bẩm: "Tội chết con ơi!...". Cho đến khi tóc chớm pha sương, tôi mới hiểu sâu sắc cái lý do mà má tôi tôn trọng hạt cơm đến thế. Và câu chuyện ấy cứ đeo bám, ám ảnh để răn đe, dạy dỗ tôi như một nhân cách làm người. Thời trước khoa học - kỹ thuật chưa cung cấp cho người nông dân những giải pháp và công cụ tiện lợi như bây giờ. Cứ theo kinh nghiệm cổ truyền của nền văn minh lúa nước mấy nghìn năm cũng chỉ là "con trâu đi trước, cái cày theo sau". Làng tôi nằm ven sông Bạc Liêu và rẻo đất của gia đình tôi cũng nằm cặp con sông đó. Sông Bạc Liêu dẫn ra cửa biển Mỹ Thanh rất gần, cho nên nước biển được dẫn vào quanh năm. Chỉ đến khi mùa mưa thật già, nước ngọt trên đồng đổ xuống thì sông Bạc Liêu mới chuyển dần sang ngọt. Thời gian ngọt của nó khoảng năm đến sáu tháng trong năm. Vì thế mà vạt đồng ở ven sông Bạc Liêu thường bị nước mặn xâm thực vào mùa hạn. Hằng năm, cứ vào tháng 10 - 11 âm lịch, ba tôi be bờ đắp đập rất kỹ. Có những năm nước rong, đến 30 Tết nước dâng quá cao, cả làng phải bỏ ăn Tết để trầm mình dưới nước đắp đê. Ấy vậy mà có những năm không ngăn được, nước mặn tràn vào "nuốt chửng" cả cánh đồng. Thế là miền quê nghèo của tôi lại một mùa xuân trong lo lắng. Trong làng, mấy lão nông ngồi bó gối thở dài, mắt đăm đăm nhìn về phía cuối cánh đồng. Mùa lúa tới sẽ là một mùa lúa trỗ cờ (chín háp). Ðó cũng là một mùa của đói nghèo.

Ðất làng tôi là đất nhiễm mặn. Cứ mùa sa mưa là các loại cỏ như cỏ nước mặn, cỏ năn, cỏ lác... thi nhau mọc lên, xanh thẫm cả cánh đồng. Thời đó (khoảng thập kỷ 70 thế kỷ 20 trở về trước), đất cỏ chiếm hầu hết đồng đất miệt Hậu Giang. Chỉ có đất đồng hay còn gọi là đất thuộc đã làm ruộng nhiều năm thì mới là đất tốt. Ðất cỏ là đất xấu nên rất khó làm và tốn nhiều công sức. Ðầu vụ, trước một cánh đồng cỏ mọc cao như thế, không cày được, nông dân ở vùng đất cỏ phải dùng phảng phát cỏ, rồi sau đó mới cày. Cũng có nơi có tập quán canh tác không cày mà phát cỏ xong thì dùng "nọc" cấy lúa do đất cứng. Tập quán phát cỏ cấy lúa là một kỹ thuật được phát minh ở Nam Bộ và có từ thế kỷ 17.

Khi nhiều người vẫn còn say nồng trong giấc ngủ, má tôi đã thức dậy và lui cui nhóm lửa để lo cho cả nhà ăn cơm vào lúc 4 giờ sáng, và gói cơm để con đem theo ăn khi đi cày trên đồng xa. Cơm được bỏ trong vỏ lá dừa nước và chỉ vỏn vẹn có cơm vắt mắm đồng. Anh em chúng tôi mới hơn 10 tuổi đã tập cày. Bốn giờ sáng đã phải dẫn trâu đi tắm, sau đó lùa trâu lên đồng để cày bừa. Cánh đồng bị đánh thức bởi những tiếng "ví, thá" của thợ cày, tiếng chân trâu quẫy nước chen lẫn với tiếng gà gáy rạng đông. Rồi cơn mưa cuối hạ bất thần chụp xuống, mưa gió quất ràn rạt vào thợ cày, đồng đất như ngập chìm trong nước, thợ cày chỉ còn biết điều chỉnh luống cày theo quán tính. Môi anh ta xám ngắt vì lạnh, tay chân tê cóng, hàm răng đánh vào nhau côm cốp. Khi tạnh mưa thì muỗi mòng, đỉa vắt bu lấy... Cực khổ như không còn có thể cực khổ hơn.

Mồng 5 tháng 5 âm lịch - Tết Ðoan ngọ, cũng là ngày cúng xuống mùa của nhà nông, đồng loạt gieo mạ. Thế nhưng, đất cỏ thì không thể gieo mạ được, ba tôi phải mượn đất đồng của cậu Hai Bền tận bên Thào Lạng, cách nhà tôi ba km, để gieo mạ. Hai tháng sau thì nhổ mạ. Cánh đàn ông nhổ mạ vạn vần đổi công, cánh phụ nữ và trẻ con thì lùa trâu vào để kéo mạ, chỗ nào không kéo được phải "lòi", phải gánh... để mang về đất chờ cấy "dăm mạ". Mãi bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thấy lạnh sống lưng. 12, 13 tuổi, tôi phải gánh bốn bó mạ đi dăm cách hàng mấy công đất, vai bị đòn xóc cứa đến chai sần.

Thời bây giờ, tháng 8 âm lịch là gặt lúa hè thu, chứ ngày xưa là thời điểm bước vào mùa cấy. Ðó là tháng mưa thu giăng mờ trên đồng. Nam phụ lão ấu bước vào mùa "cấy vạn". Nước lụt ngập đến bụng người, phải cấy những loại mạ cao đến cả thước và cấy rất thưa, mỗi tầm (ba mét) chỉ có bảy, tám cây lúa với các loại giống: nàng thơm, nàng ráo, trắng lùn... 3, 4 giờ sáng là chúng tôi rủ nhau ra đồng lặn ngụp dưới nước. Vạn cấy xóm đàng đông hò đối đáp với vạn cấy xóm đàng tây... Hò riết rồi hình thành một nhánh văn nghệ dân gian, đó là hò vạn cấy. Các nhà thơ dân gian lẫn những nhà thơ chuyên nghiệp đã thi vị hóa không gian của ngày mùa, chứ thực tế thì dường như mọi người hò hát là muốn để quên nỗi cực nhọc của đời thợ cấy, suốt ngày ngâm nửa thân mình dưới nước.

Hồi đó, lúa cấy không cần bón phân, loại phân hữu cơ do cỏ hoại ra hồi đầu vụ khiến lúa nở rất nhanh, mới tháng 10 mà lúa nở to bằng cái tô con gà (khoảng ba tấc đường kính). Người nông dân quê tôi thuở ấy hay nói "đêm nằm nghe lúa nở". Nói thế là nói đến trạng thái của những người gửi gắm hết hy vọng vào vụ mùa, mơ màng một vụ mùa bội thu đến nhập tâm, nên đêm nằm cứ tưởng như lúa nở đó thôi. Khi gió chướng sòng tràn về làm mát mẻ đất trời là lúa bắt đầu trỗ (khoảng đầu tháng 11 âm lịch). Vụ mùa kéo thật dài, năm nào trúng mùa năng suất cũng chỉ đạt 10 - 12 giạ lúa một công tầm cấy là cùng. Ðến tháng Chạp (tháng 12) lúa mới chín rộ. Nhiều gia đình gặt không kịp thì phải để lúa chín ngoài đồng, ăn Tết xong gặt tiếp. Hồi xưa, gặt lúa xong là bó lại để trên "cò", chờ lúa khô thì gom lại chất cao lên thành ngố, ra giêng mới bắt trâu kéo về sân. Tháng 2 - 3 âm lịch là tháng đạp rơm. Trong những đêm đồng khô, trăng sáng vằng vặc, trai gái làng vừa đạp lúa vừa hẹn hò. Khi lúa vô bồ xong cũng là lúc trời gầm gừ xa xa và sấm chớp nhì nhằng báo hiệu một mùa mưa sắp đến. Nghĩa là thời gian làm một vụ lúa kéo dài gần hết một năm trời.

Nhớ những năm mưa dứt sớm, nước biển mặn chát từ cửa Mỹ Thanh tràn vào đồng ruộng, làm cho những bông lúa bắt đầu "cong trái me" rồi chuyển sang mầu trắng nhợt nhạt. Cả cánh đồng lúa bị háp trắng (không kết gạo được) như một đồng lau sậy. Những bụi lúa to bằng cái tô con gà tàn lụi dần cho đến khi khô cháy. Khát vọng vụ mùa của người nông dân cũng tàn lụi theo bụi lúa. Tết nhứt đã gần kề, thế lại là một cái Tết nữa không có áo mới... Ba má tôi, những người nông dân quê tôi đời nghèo tả tơi manh áo, làm ra hạt thóc bằng mồ hôi và nước mắt nên họ quý trọng hạt cơm đến mê tín. Suốt mùa giáp hạt cứ nơm nớp nỗi lo thiếu thóc ăn. Chính vì thế mà gần như 100% số gia đình nông dân thời đó đều làm bồ đựng thóc trong nhà. Bồ thóc càng to thì trong lòng càng vững và vị thế của gia đình cũng được xóm làng nhìn nhận qua cái bồ thóc. Hiện tượng có bồ thóc trong nhà mãi đến thập kỷ 90 của thế kỷ 20 mới chấm dứt ở nông thôn Bạc Liêu.

Một câu chuyện về hạt thóc mang tính giáo dục sâu sắc được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác ở quê tôi: "Ngày xưa, hạt thóc to bằng trái dừa khô, đến mùa lúa chín là thóc tự lăn vào nhà. Người nông dân cứ thế mà mang bỏ vào bồ thóc. Một bữa nọ, một người đàn bà vì ham mê cờ bạc nên khi lúa lăn vào nhà, bà ta bực dọc và phũ phàng dùng chổi đập những hạt thóc sang một bên để tiếp tục đi bài bạc. Chẳng may, bà đã làm bể những hạt thóc ấy. Thế là từ đó, thóc không còn to bằng trái dừa khô mà nhỏ xíu như bây giờ. Và khi lúa chín thì không còn tự lăn vào nhà nữa". Câu chuyện cứ thế đã in sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ về thái độ đối với hạt thóc, hay nói cách khác là đối với giá trị lao động làm ra hạt thóc.

Làm ra hạt thóc cực khổ như thế, cha ông mới có câu: "Ai ơi bưng bát cơm đầy - Dẻo ngon một hạt, đắng cay muôn phần". Và ba tôi thì nói với con cái sau những buổi cơm ngoài đồng: "Làm ruộng bây giờ sướng lắm! Chứ thời ông nội bây thì cực vô cùng!". Rồi ba tôi kể: "Lúc ông bà nội chở ba đến xứ này, ba mới lên năm tuổi. Rừng bạt ngàn, những cây mắm to, rừng rậm hoang vu, thú rừng rất dữ, đi trên sông nghe cọp gầm. Ông bà nội là những người bồng bế nhau chạy loạn từ miệt Tiền Giang về, và đây đã là bước đường cùng nên đành phải lên rừng khai phá. Ông nội phải đóng cái chòi trên trảng ba cây mấm rồi để ba trên đó vì sợ cọp tha. Phía dưới sông, xa xa, người ta treo một cái áo đen báo hiệu rằng nơi đây cọp vừa ăn thịt người. Ông nội, bà nội dọn rừng hoang để khẩn đất, lao động cật lực, đốn cây, chặt dây đến bàn tay, bàn chân tứa máu. Lúc đó muỗi mòng, đỉa vắt vô số. Ông bà nội vừa lo chống chọi với thú dữ, rồi bệnh tật hoành hành, đói khát vì cướp bóc, loạn lạc triền miên... Vậy mà mảnh đất 12 công cũng được thành khoảnh, cây lúa bắt đầu mọc lên. Chỗ cao cạnh bờ sông Bạc Liêu thì ông nội trồng rẫy, bà nội chở rau cải ra chợ Bạc Liêu bán". Và từ đó, ông nội truyền lại mảnh đất ấy cho ba má tôi lẫn cả nghề trồng rẫy. Ba tôi lại trồng rẫy và má tôi lại chở rau cải ra chợ Bạc Liêu bán...

Sinh thời, ông nội tôi còn kể: "Hồi tao về đây khẩn đất, chợ Bạc Liêu chỉ bằng nắm tay!". Nhưng giờ đây, chợ Bạc Liêu phồn thịnh đến nhường ấy. Tôi có suy nghĩ rằng, chợ Bạc Liêu được như ngày hôm nay cũng nhờ những người như ông bà nội tôi góp một phần không nhỏ. Cũng như xóm làng, đồng ruộng, phố xá hôm nay được những người chạy loạn từ miệt Tiền Giang đến đây đặt nền móng đầu tiên. Tôi có thói quen suy nghĩ đa đoan nên có khi tự làm khổ mình. Mỗi lần nghe các con tôi và đám bạn nói chơi với nhau bằng những câu đại loại như "mày là dân ruộng", "dân hai lúa", "mày quê quá"... là tôi lại buồn - một nỗi buồn máu thịt. Mỗi lần như thế, tôi kêu các con mình lại bảo: "Ông nội là dân ruộng. Thời trẻ, cha là dân quê đó con ơi!". Và rồi nỗi buồn ấy cứ ở lại trong tôi rất lâu. Có một bài toán của hạt thóc và cuộc đời, rất dễ tính như cộng, trừ, nhân, chia. Một đất nước nghèo, một làng quê nghèo, một bà mẹ nghèo làm ra hạt thóc để nuôi ta lớn khôn hẳn phải tốn nhiều mồ hôi, nước mắt hơn những người mẹ khá giả. Nhiều người gọi đó bằng cụm từ có phần "bài bản": Giá trị công đức. Còn tôi, tôi coi đó là một phép tính. Ai không làm được phép tính ấy thì như thiếu đi một phần nhân cách con người. Vâng, đời người nông dân như cha tôi, như tôi, như bà con chòm xóm nay đã khác trước, nhưng khác gì thì khác, đừng bao giờ coi nhẹ từng hạt gạo đã làm ra. Hạt gạo ấy là công sức, là nền tảng của nền văn minh văn hóa miền châu thổ. Cha ông đã trao gửi cho chúng ta. Nghĩ như thế, tôi lại nhớ đến má của tôi, nhớ người chưa bao giờ phung phí một hạt thóc, hạt cơm.

PHAN TRUNG NGHĨA

Có thể bạn quan tâm