Gốm cổ Chu Ðậu - thông điệp của thời gian

Giữa năm 1980, Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng lúc bấy giờ là đồng chí Ngô Duy  Ðông nhận được thư của một nhân viên Bộ Ngoại giao Nhật Bản tên là Ma-kô-tô A-na-bu-ki. Lời thư thân tình, người bạn Nhật này tự giới thiệu từ lâu đã nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung và đồ gốm Việt Nam nói riêng. Ông viết: "Gần đây, tôi mới biết là ở Viện Bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ bảo tồn một chiếc bình hoa lam Việt Nam, được xuất cảnh từ Việt Nam hồi thế kỷ 15 - 16. Trên có dòng chữ Hán như sau: Thái Hòa bát niên Nam Sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý ký bút. 13 chữ Hán nói trên nghĩa là: Năm 1450, một người thợ là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách châu vẽ". Ông đề nghị đồng chí Ngô Duy Ðông cử chuyên gia đến nghiên cứu về nghề gốm ở địa danh ghi trên chiếc bình cổ: "Ðiều này rất quan trọng đối với lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử thủ công nghiệp và vai trò của phụ nữ nói riêng" - ông đánh giá như vậy.

Cuộc truy tìm quê hương chiếc bình cổ không mấy khó khăn. Ở vùng đất ven sông Thái Bình thuộc huyện Nam Sách (tỉnh Hải Dương) có làng Chu Ðậu. Nơi ấy, khi bà con đào đất đắp đê, vét ao, đào giếng, đâu đâu cũng gặp những mảnh gốm lâu đời. Nhưng những cuộc thám sát, khai quật phải kéo dài suốt sáu năm, từ 1986 đến 1991, mang về được từ lòng đất Chu Ðậu hai vạn hiện vật gốm, mà mỗi chiếc tước, chiếc lọ, mỗi bát hương, chân đèn... đều là một thông điệp của thời gian. Sau đó, khu vực sản xuất gốm Chu Ðậu đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa.

Theo các nhà khảo cổ thì gốm Chu Ðậu xuất hiện từ thế kỷ 14, phát triển rực rỡ vào thế kỷ 15-16 và lụi tàn vào thế kỷ 17. Chiếc bình cổ đang lưu giữ tại Bảo tàng I-xtam-bun (Thổ Nhĩ Kỳ) mà người bạn Nhật nhắc đến trong thư, là một chiếc bình hoa lam cao 54 cm, được mua bảo hiểm với số tiền một triệu USD. Một sự trùng hợp thú vị là cũng trong thời gian diễn ra các cuộc khai quật ở Chu Ðậu, thì ở ngoài khơi Cù Lao Chàm (Quảng Nam), các chuyên gia đã trục vớt được con tàu cổ bị chìm dưới đáy đại dương, trong có chứa vô vàn đồ gốm mà chủ yếu là gốm Chu Ðậu. Một người Mỹ có tên là G.Xpin-man đã mua được chiếc bình tì bà cao 28,5 cm qua một cuộc đấu giá, với giá kỷ lục 521.000 USD. Gốm Chu Ðậu cũng có mặt ở gần 50 bảo tàng trong nước và trên thế giới. Bởi nó đã đạt được đỉnh cao của ngôn ngữ gốm là trong như ngọc, trắng như ngà, sáng như gương, kêu như chuông, hội tụ được những tinh túy cả về văn hóa và nghệ thuật.

Từ xa xăm gốm cổ Chu Ðậu lại trở về giữa không gian thời đại mới. Nhưng có điều khắc nghiệt là người dân Chu Ðậu bây giờ - hậu duệ nhiều đời của các nghệ nhân gốm ngày xưa, nay không còn biết chút xíu nào về nghề làm gốm. Làng nghề đã thật sự thất truyền từ ba bốn trăm năm trước. Có hồi, biết là có giá trị, họ thi nhau đào xới nền nhà mình lấy đồ gốm cổ đem bán, cho đến khi chính quyền cấm mới thôi. Trưởng thôn Nguyễn Văn Thời chỉ cho chúng tôi những tủ kính bụi bặm ở nhà văn hóa thôn, trong đựng cơ man nào là mảnh gốm cổ với men mầu đa sắc mà có loại giờ cũng chưa tái tạo được.

Năm 2000, từ TP Hồ Chí Minh, giám đốc Công ty Haprosimex Sài Gòn (Hapro) Nguyễn Hữu Thắng tìm về Chu Ðậu. Và ý tưởng hồi sinh làng nghề dần định hình từ đó. Chỉ hai năm sau, được sự ủng hộ nhiệt tình của tỉnh Hải Dương, một xí nghiệp gốm ra đời ngay trên mảnh đất này, và ngày 19-5-2003, lô hàng gốm đầu tiên lên đường xuất sang Tây Ban Nha, với 8.490 sản phẩm, trị giá 20.000 USD. Lại một sự trùng hợp: con tàu đắm ở Cù Lao Chàm ngày xưa cũng đang hành trình đưa hàng sang bán ở Tây Ban Nha. Thế nên các bô lão trong làng mới bảo: Thật là "âm phù dương trợ".

Giám đốc xí nghiệp gốm Chu Ðậu (nay thuộc Tổng công ty Thương mại Hà Nội) Nguyễn Văn Lưu trăn trở: Làm sống lại một làng nghề truyền thống là điều không đơn giản. Xí nghiệp chỉ đóng vai trò hạt nhân, mong muốn sẽ mở rộng sản xuất tại các vệ tinh gia đình, rồi sau đó gắn với du lịch làng nghề, hy vọng làm cho Chu Ðậu phát triển sống động như thuở nào... Hiện xí nghiệp không chỉ mời các nghệ nhân về đào tạo nghề cho 200 lao động của mình, mà còn góp phần dạy nghề, truyền nghề cho con em người dân địa phương, chuẩn bị nguồn nhân lực cho làng nghề nay mai.

Dường như người nước ngoài biết đến gốm Chu Ðậu không ít hơn ta. Cách đây vài ngày, mấy khách hàng từ Nhật Bản mang mẫu đồ gốm cổ Chu Ðậu sang đây đặt hàng làm đồ giả cổ. Theo họ, người Nhật rất hiểu biết về gốm Chu Ðậu. Ông Lưu kể rằng mới đây, một đoàn khách 30 người Mỹ đến thăm nhà trưng bày sản phẩm của xí nghiệp. Khi ông định giới thiệu với họ về nguồn gốc gốm Chu Ðậu, họ xua tay nói không cần vì đã biết từ lâu. Theo ông Lưu, năm 2005, xí nghiệp xuất khẩu hàng sang Tây Ban Nha, Pháp, Ðức, Nhật, Nga đạt giá trị năm tỷ đồng. Năm 2006 dự kiến cũng như vậy. Chưa thể đạt tới tinh xảo như gốm của tiền nhân, nhưng lớp thợ đầu tiên ở đây tay bút vẽ hoa cũng mềm mại, thoăn thoắt trên các bình mộc. Trần Thị Ngàn cho biết, mỗi tháng cô thu nhập khoảng 700 nghìn đồng, tính theo sản phẩm. Người khéo tay nhất là Nguyễn Hữu Trại, mỗi tháng hơn một triệu, có thể đạt tới hai triệu đồng nếu có việc thường xuyên. Cho nên Trại đã được cử làm phó quản đốc xưởng, vừa giám sát vừa hướng dẫn thợ làm việc. Trưởng thôn Chu Ðậu Nguyễn Văn Thời cho biết: Xí nghiệp về đây là đem đến cho bà con niềm hy vọng vinh danh sản vật quê hương, đồng thời con em sẽ có thêm việc làm, cải thiện đời sống. Hiện đã có hơn 100 người trong thôn đi học nghề, trong số 25 hộ đăng ký tham gia làm gốm thì năm hộ là hăng hái nhất. Tuy nhiên, ông Tú, bí thư chi bộ thôn cho rằng điều đó còn khó khăn vì nếu mở xưởng, cần khoảng 200 triệu đồng, mà Hapro hứa sẽ đầu tư cho 50 triệu đồng/hộ, Sở Công nghiệp tỉnh đầu tư 20 triệu nữa, cũng không đủ.

Cách đây không lâu, một cụ ông người Nhật Bản tên là A-ra-ky, 84 tuổi, đã đến Chu Ðậu.  Vốn là người nghiên cứu về gốm Chu Ðậu, cứ mỗi năm cụ lại về đây một lần. Lần này, cụ xin được làm công dân của làng. Sự mến yêu Chu Ðậu của người phương xa đặt ra câu hỏi cho chính chúng ta: Vậy phải làm gì để hồi sinh làng gốm cổ?

Có thể bạn quan tâm