Cách tư duy hành chính lãnh thổ
Mặc dù tổ chức hệ thống tòa án hiện hành ở nước ta phần nào thể hiện được nội dung căn bản của nguyên tắc hai cấp xét xử. Với cách giải thích và quy định như vậy, trên thực tế nguyên tắc hai cấp xét xử thường chỉ được hiểu và áp dụng như nguyên tắc tố tụng, hơn là nguyên tắc tổ chức của hệ thống tòa án.
Chính nguyên tắc hành chính lãnh thổ mới là nguyên tắc nổi bật hơn trong tổ chức hệ thống tòa án Việt Nam. Nguyên tắc này, chứ không phải là nguyên tắc hai cấp xét xử, hiện đang là nhân tố chính quy định cấu trúc của hệ thống tòa án Việt Nam. Do áp dụng nguyên tắc này, tòa án nhân dân (TAND) hiện tại xuất hiện ở tất cả các đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Hệ thống tòa án, theo đó, bao gồm ba cấp theo cấp hành chính lãnh thổ: huyện, tỉnh, trung ương.
| "Việc quá coi trọng các cấp hành chính lãnh thổ trong tổ chức và hoạt động làm cho hệ thống TAND đang gặp phải một số bất cập". |
Khi tổ chức tòa án theo mô hình này, vô hình trung, cấp hành chính lãnh thổ đã được lấy để xác định nhu cầu xét xử. Ðiều này là không thật sự hợp lý, bởi vì, cấp hành chính lãnh thổ được đặt ra để phục vụ nhu cầu quản lý hành chính, chứ không phải là nhu cầu xét xử. Vì thế, tất yếu dẫn tới tình trạng có tòa án phải giải quyết rất nhiều án và quá tải, trong khi những tòa án khác cho dù ở cùng cấp nhưng lại nhàn rỗi do số lượng vụ án phân bố không đều giữa các địa phương hành chính.
Mặt khác, tư duy theo hành chính lãnh thổ không cho phép tổ chức tòa án ở cấp xã, tránh chuyện quá tốn kém về nguồn lực và làm cho bộ máy nhà nước có vẻ quá nặng nề. Kết quả là hệ thống tòa án chỉ có ba cấp tòa, không thể tổ chức theo bốn cấp như các hệ thống tòa án hiện đại. Ðiều này trực tiếp dẫn tới hậu quả là trong hệ thống tòa án hiện nay, không xác định được cấp tòa là "cỗ máy" xét xử sơ thẩm chính riêng biệt với cấp tòa là "cỗ máy" xét xử phúc thẩm chính. Theo cách thức tổ chức hiện nay, tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện đồng nghĩa với việc tòa án cấp tỉnh sẽ là cỗ máy xét xử phúc thẩm chính. Ðối chiếu quy định của pháp luật tố tụng thì tòa án cấp tỉnh cũng là cỗ máy xét xử sơ thẩm, bởi vì cơ quan này có thẩm quyền xét xử chung đối với hầu hết các loại vụ việc. Chưa hết, tòa án cấp này cũng phải "gánh" cả thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm. Với tình trạng này, việc tòa án cấp tỉnh bị quá tải và hoạt động không được hiệu quả như mong muốn là tình trạng dễ hiểu.
Như đã phân tích, tổ chức tòa án theo cấp hành chính lãnh thổ gián tiếp tạo ra tâm lý cho rằng, hệ thống tòa án được sắp xếp theo thứ bậc cao thấp giống như thứ bậc trong hệ thống hành chính. Theo đó, tòa án sơ thẩm bị coi là tòa án cấp dưới của tòa án phúc thẩm. Trong khi phải hiểu đúng rằng, hai cấp tòa án này là độc lập với nhau, cấp tòa này không phải là cấp trên của cấp tòa án kia và ngược lại.
| Ðiều 34, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011 và Khoản 2, Ðiều 170, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đều quy định TAND cấp tỉnh có quyền lấy vụ án của tòa án cấp dưới lên để giải quyết. |
Với tâm lý cấp tòa án cao-thấp, người dân sẽ có tâm lý coi thường tòa án cấp sơ thẩm, thậm chí có xu hướng kháng cáo lên cấp phúc thẩm như thể khiếu nại hành chính vậy! Từ thực tiễn cho thấy, bản thân quy định của các luật tố tụng hiện hành cũng trực tiếp gây ra tâm lý như vậy.
Hướng tới phương án "bốn cấp"
Ðể khắc phục những bất cập nêu trên trong tổ chức hệ thống tòa án, chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam đã xác định xây dựng hệ thống tòa án Việt Nam gồm bốn cấp. Ðổi mới tổ chức không chỉ phù hợp với thực tiễn tốt trên thế giới mà còn thể hiện tính kế thừa mô hình đã có từ trước. Vấn đề giờ đây việc chuyển đổi tổ chức các tòa án trong từng cấp như thế nào để vừa đáp ứng các yêu cầu và phát huy hết các ưu điểm của nguyên tắc hai cấp xét xử, đồng thời bảo đảm sự vận hành trơn tru khi hệ thống cũ được chuyển đổi sang hệ thống mới.
Chúng tôi cho rằng, theo định hướng cải cách tư pháp, một trong những nội dung đáng quan tâm về mô hình tòa án sơ thẩm khu vực - cấp tòa án thấp nhất - được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện. Thẩm quyền của tòa án này về cơ bản tương tự với thẩm quyền tòa án nhân dân cấp huyện hiện tại.
Với xu hướng số lượng tòa án sơ thẩm khu vực chắc chắn sẽ ít đi so với TAND huyện hiện nay, trong khi địa bàn phụ trách của mỗi tòa án trở nên rộng hơn và thẩm quyền xét xử các vụ việc rất rộng. Như thế nguy cơ "xa dân" trong hoạt động của cấp tòa án cơ sở này là khá hiện hữu.
Ðể ngăn ngừa nguy cơ này, có thể thành lập các chi nhánh của các tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực ở các địa bàn cần thiết, để người dân có thể dễ dàng tiếp cận tòa án và được thi hành công lý ngay cả đối với những tranh chấp nhỏ, hoặc vụ án ít nghiêm trọng trong cuộc sống hằng ngày.
Tương tự, với mô hìnhTAND cấp cao, TAND cấp tỉnh trong mô hình đề xuất trên đây cũng có thể thành lập các chi nhánh tại một số địa bàn. Tất nhiên, phải nghiên cứu kỹ lưỡng về tần suất và đặc điểm của các vụ việc tại các địa phương hoặc tại bản thân tòa án.