Giáo sư, Viện sĩ Ðào Thế Tuấn,một nhà khoa học lớn đã ra đi

11 giờ 30 phút ngày 19-1-2011, Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học nông nghiệp và nông thôn hàng đầu Việt Nam Ðào Thế Tuấn đã ra đi về cõi vĩnh hằng.

Khi nghe tin này, có lẽ tất cả mọi người biết giáo sư, từ học trò của ông, cộng sự, đối tác trong và ngoài nước, kể cả những người không thích quan điểm phản biện và cách nói thẳng của ông, đều cảm thấy mất đi một con  người  có  nhân cách  lớn trong khoa học.

Một trong những người khai sáng, thiết lập nền khoa học nông nghiệp nông thôn nước nhà, nay không còn nữa. Ông là người cuối cùng của thế hệ vàng của nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, cùng với những Giáo sư Bùi Huy Ðáp, Lương Ðình Của, Vũ Tuyên Hoàng, đã đặt nền móng và phát triển nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học nông nghiệp, nông thôn.

GS Ðào Thế Tuấn, con trai GS Ðào Duy Anh, sinh ngày 4-7-1931. Thân mẫu ông kể lại, cụ Phan Bội Châu biết tin gửi một bài thơ mừng:      

Hai mươi lăm triệu giống dòng ta,

Hôm trước nghe thêm một tiếng oa,

Mừng chị em mình vừa đáng mẹ,

Mong thằng bé nọ khéo in cha.

Gió đưa nam tới sen đầy hột,

Trời khiến thu về quế nở hoa.

Sinh tụ mười năm mong thế mãi,

Ây nhà là nước, nước là nhà.          

Do sống trong một gia đình có nhiều người tham gia cách mạng nên ông được tiếp xúc với các kiến thức chính trị rất sớm. Ngay những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám, ông đã tham gia đội liên lạc của Giải phóng quân do ông Bạch Văn Quế thành lập. Tháng 5-1950, Bộ Tổng tham mưu cử người vào tuyển học sinh chuyên khoa để đào tạo cán bộ cho quân đội, chuẩn bị tổng phản công, ông đã tòng quân và hành quân ra Việt Bắc. Sang năm 1951, ông được cử đi học lớp Trung sơ cấp quân sự ở Trường lục quân Việt Nam ở Vân Nam, Trung Quốc. Tháng 8-1953 cùng với 50 anh chị em được chọn để cử đi Liên Xô học, sau một tháng bắt đầu học tiếng Nga một nhóm gồm 10 người được cử về Ta-sken để học nông nghiệp. Hồi bấy giờ ở Liên Xô, trường phái Li-xen-cô đang thịnh hành, nhưng ông giáo của GS Tuấn lại là một cộng tác viên của Viện sĩ

Va-vi-lốp, nên ông được giới thiệu với các nhà khoa học thuộc trường phái này. Trong 5 năm học tại Liên Xô, ông vừa hoàn thành chương trình kỹ sư nông học và tiến sĩ nông học, tiết kiệm được ba năm. GS Ðào Thế Tuấn là tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam được Liên Xô đào tạo.

Cuối năm 1958, ông về nước, được phân công công tác ở Học viện Nông lâm và bắt đầu nghiên cứu về cây lúa. Ðầu các năm 1960 sau khi thành lập các hợp tác xã đã phát động phong trào thâm canh lúa, để phục vụ cho việc thâm canh ông bắt đầu nghiên cứu cơ sở sinh lý của việc sử dụng phân bón, trong đó có phân lân, đề xuất các biện pháp sử dụng phân bón trong kỹ thuật thâm canh tăng năng suất lúa. Trong thời gian này, ông còn nghiên cứu về bệnh vàng, về kỹ thuật canh tác và chọn các giống chống chịu bệnh, và lần đầu tiên một bệnh hại đã được giải quyết bằng giống chịu bệnh. Các kết quả này được tổng kết trong cuốn 'Sinh lý của ruộng lúa năng suất cao', đã trở thành một cuốn sách giáo khoa cho nhiều thế hệ sinh viên và cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp. GS Ðào Thế Tuấn và đồng nghiệp đã tạo ra nhiều giống lúa và cây trồng khác còn trồng đến tận ngày nay. Năm 1969, ông bắt đầu xây dựng cơ sở khoa học của việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Các công trình nghiên cứu của ông và cộng sự đã đóng góp vào việc thúc đẩy việc phát triển cây vụ đông ở nước ta, mở đầu cho việc đa dạng hóa sản xuất.

Nhiều năm ông hợp tác khoa học kỹ thuật với Viện Khoa học Nông nghiệp Pháp trong Chương trình Hệ thống Nông nghiệp lưu vực sông Hồng. Trong hợp tác Việt -  Pháp, từ đầu năm 1980 và cả thập kỷ 90 của thế kỷ 20, ông đã quan tâm đến tiếp cận hệ thống trong khoa học nông nghiệp. Từ việc nghiên cứu hệ thống ruộng lúa, tiến lên nghiên cứu hệ thống cây trồng, rồi hệ thống nông nghiệp bao gồm cả chăn nuôi, và khu vực dân cư của hộ nông dân. Từ năm 1983, ông được chỉ định làm Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam. Năm 1984, ông đã lãnh đạo một Chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật với các cơ quan khoa học Pháp, phát triển việc nghiên cứu phát triển hệ thống nông nghiệp, nông thôn, đào tạo hàng chục thạc sĩ và tiến sĩ tại Pháp và châu Âu. Ông và các học trò của mình, ngay từ những năm 1990, đã đi đầu, đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu ở Việt Nam như tín dụng vi mô, hộ nông dân, hệ thống sản xuất, ngành hàng, tổ chức nông dân, thể chế nông thôn, quản lý chất lượng sản phẩm, chính sách đất đai, dịch vụ nông nghiệp, quản lý thủy nông cơ sở. Nhiều mô hình nông nghiệp, nông thôn đã được giáo sư chỉ đạo các học trò nghiên cứu, thử nghiệm trên thực địa, sử dụng phương pháp nghiên cứu research-action. Các công trình nghiên cứu về Hệ thống nông nghiệp là cơ sở khoa học để xác định các chính sách nông nghiệp và nông thôn trong điều kiện đổi mới và phát triển một hướng nghiên cứu mới để phục vụ cho việc phát triển nông thôn.

GS Ðào Thế Tuấn là người duy nhất trong ngành nông nghiệp làm việc, thành công và nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực từ khoa học cơ bản trồng trọt, khoa học ứng dụng, hệ thống nông nghiệp, phát triển nông thôn. Trong các công trình của Giải thưởng Hồ Chí Minh của ông, cũng được chia ra làm nhiều giai đoạn, với các công trình khác hẳn nhau về lĩnh vực nghiên cứu.

Với những cống hiến to lớn cho cuộc kháng chiến và cho nền khoa học nước nhà, GS Ðào Thế Tuấn đã được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng hạng ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất, Huân chương Lao động hạng nhì. Năm 2000, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Năm 2005, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ. Ngoài ra, ông còn nhận nhiều phần thưởng của Cộng hòa Pháp như: Huân chương Sĩ quan Công trạng nông nghiệp, Sĩ quan Cành cọ hàn lâm và Giải thưởng René Dumont.

Những ai đã từng làm việc, quen GS Ðào Thế Tuấn, đều thấy ở ông một nhân cách khoa học lớn. Một con người vì khoa học, dám nói đến cùng, thậm chí đôi lúc hơi cực đoan, để bảo vệ các quan điểm của mình. Nhiều lần, ông đã từng dạy chúng tôi, là trí thức, không nên chỉ biết lý giải quan điểm của cấp trên, của lãnh đạo, vì như thế sẽ hại lãnh đạo và hại đất nước. Ông dạy chúng tôi rằng, cần có quan điểm, xuất phát từ lý luận và thực tiễn nghiên cứu, trung thực với bản thân mình và với sự thật khoa học.

Từ khi về hưu, GS Ðào Thế Tuấn vẫn nghiên cứu, không bao giờ ngừng suy nghĩ và tìm tòi. Có lẽ, ít có nhà khoa học nào, có sự đam mê nghiên cứu như ông, nghiên cứu là cuộc đời, lẽ sống, máu thịt của ông. Dù về hưu, nhưng ông luôn cập nhật và không bao giờ lạc hậu, thậm chí đôi khi phát biểu của ông làm chúng tôi giật mình, vì ông đã cập nhật còn nhanh hơn mình. Trước khi mất ba ngày, khi chúng tôi vào thăm, ông vẫn say sưa hỏi về các hội thảo, bàn về chính sách nông nghiệp, nông thôn và dặn dò chúng tôi trong nghiên cứu, công việc. Ông vẫn theo dõi Ðại hội Ðảng, và hỏi những sự kiện, những quan điểm ông mong chờ được thảo luận tại Ðại hội Ðảng. GS Ðào Thế Tuấn đã để lại không chỉ là những cuốn sách, bài báo khoa học, mà ông còn để lại nhiều tiếp cận nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn cho thế hệ mai sau, ông còn để lại nhiều mô hình trên thực tiễn, cả một đội ngũ các nhà khoa học hàng đầu về kỹ thuật, phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu, ý tưởng của ông không chỉ ở Việt Nam mà còn mang tầm quốc tế.

 Thầy Tuấn đã ra đi, một nhân cách lớn ra đi, để lại nhiều trăn trở, suy nghĩ dang dở về sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.

TS VŨ TRỌNG BÌNH

Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn

Có thể bạn quan tâm