Giảm ô nhiễm môi trường làng nghề

Ô nhiễm ngày càng nặng nề

Trên địa bàn Thủ đô Hà Nội hiện có khoảng 1.000 làng làm nghề thì hầu hết đều nằm trong tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khảo sát tại 40 xã ở Hà Nội cũng cho thấy khoảng 60% số xã bị ô nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất. Xã Hữu Hòa thuộc huyện Thanh Trì có hơn 30 hộ làm nghề miến dong, bánh đa... với công suất từ 30 đến 40 tấn mỗi ngày. Toàn bộ nước thải từ ngâm, tẩy trắng bột, cùng với nước thải trong chăn nuôi và sinh hoạt hằng ngày đều chảy trực tiếp vào hệ thống cống rãnh của địa phương, rồi đổ xuống dòng sông Nhuệ. Hai xã Phú Diễn và Thượng Cát của huyện Từ Liêm có nghề sản xuất đậu phụ và tình trạng nước thải từ sản xuất đậu phụ đến nước thải từ các chuồng lợn cũng đổ ra hệ thống cống chung của xã bốc mùi hôi và ô nhiễm môi trường. Ở huyện Từ Liêm còn một số làng nghề sản xuất bánh kẹo, mứt, ô mai, nghề làm dây ni-lon, sản xuất nhựa tái chế, nghề dệt vải... cũng trong tình trạng nước thải từ quá trình sản xuất các sản phẩm đó đều thải trực tiếp vào hệ thống cống thoát nước chung, hay các ao hồ của xã rồi đổ ra các sông.

Hầu hết nước thải tại các làng nghề ở Hoài Ðức không được xử lý và xả thẳng vào sông Nhuệ, sông Ðáy, gây ô nhiễm cho vùng hạ lưu như Chương Mỹ, Thanh Oai... Chất thải rắn cũng chỉ được xử lý đơn giản rồi thu gom chôn lấp tạm thời. Một số làng nghề ở xã Dục Tú (Ðông Anh), xã Xuân Ðỉnh (Từ Liêm) chất thải được thu gom rất thủ công, rồi đem chôn lấp qua quýt ở các bãi chôn lấp hở, thậm chí bị thải bỏ và đốt bừa bãi ngay trên các con đê làng hoặc đổ xuống dòng sông. Cùng với đó là nguồn nước thải kéo theo nhiều dầu mỡ và các chất hóa học không qua xử lý khiến chất lượng nước ngầm bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại những xã này, hàm lượng COD vượt tiêu chuẩn cho phép 3-4 lần, hàm lượng dầu mỡ lên tới 2,2 mg/l so với tiêu chuẩn cho phép là 0,3 mg/l.

Mấy năm trước đây, khi dự án cụm công nghiệp làng nghề (13 ha) của xã Phong Khê (Yên Phong, Bắc Ninh) được khởi công, Phong Khê nhanh chóng trở thành "làng công nghiệp". Sản lượng giấy của xã nhanh chóng tăng từ 40.000 tấn/năm lên tới 80.000 tấn/năm, đạt doanh thu gần 200 tỷ đồng. Tuy nhiên, kèm theo sự phát triển kinh tế là ô nhiễm môi trường. Do phải thu mua giấy phế thải từ các nơi nên Phong Khê còn có tên "làng bãi rác". Quá trình ngâm, tẩy bằng kiềm, gia-ven... thải trực tiếp ra môi trường một lượng hóa chất độc hại mà không qua xử lý. Toàn xã có hơn 30% số dân mắc các bệnh về da liễu, đường ruột, các bệnh về hô hấp như lao phổi, viêm phổi khá phổ biến. Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh, hàm lượng BOD (chỉ số ô-xy sinh hóa) trong nước thải tại Phong Khê vượt tiêu chuẩn cho phép tới 5 lần, COD (nhu cầu ô-xy hóa học) vượt ba lần.

Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề xảy ra phổ biến như: ô nhiễm nước; ô nhiễm không khí gây bụi, ồn và nóng; ô nhiễm chất thải rắn do tái chế nguyên liệu. Theo các chuyên gia phân tích các mẫu nước tại các làng nghề, 100% mẫu nước thải ở các làng nghề có thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép, nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Ước tính tại lượng ô nhiễm không khí do đốt than để nung vôi, nung gốm, sứ từ hàng trăm lò thủ công lên tới hàng triệu m3 khí độc. Chế biến lương thực thực phẩm, tái chế, dệt nhuộm được coi là một trong những làng nghề có mức độ gây ô nhiễm môi trường khủng khiếp nhất. Một khảo sát mới đây của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (Trường đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ Khoa học Công nghệ cho thấy 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép. Nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm, nhất là nước tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, dệt nhuộm. Tại các làng nghề tái chế giấy, vấn đề ô nhiễm chủ yếu là chất rắn như xơ sợi, bột giấy trong nước thải. Kết quả khảo sát tại 30 làng nghề tại Hưng Yên cho thấy có tới 60% sản xuất hoàn toàn thủ công, chỉ có 37% là có trang bị nửa cơ khí và hầu hết là sản xuất tại gia đình. Làng nghề sản xuất giấy tái chế Phú Lâm và Phong Khê (Bắc Ninh), mỗi năm làm ra gần 20.000 tấn sản phẩm thì cũng đã thải ra môi trường khoảng 1.500 m3 nước thải mỗi ngày. Nước thải chứa lượng lớn các hóa chất độc hại như xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông và phẩm mầu... với hàm lượng BOD5 và COD vượt 4 - 6 lần tiêu chuẩn cho phép. Ở các làng tái chế kim loại, khí độc không qua xử lý được thải trực tiếp vào không khí như ở làng nghề tái chế chì Ðông Mai (Hưng Yên), nồng độ chì vượt hàng nghìn lần tiêu chuẩn cho phép. Chưa kể, khu vực này chưa có nước máy, người dân chủ yếu sử dụng nước sinh hoạt từ các giếng khoan, giếng đào. Trong khi trên mặt đất, những dòng nước chứa đầy rỉ sét, hóa chất từ hàng đống ắc-quy và phế liệu đóng thành từng lớp, chảy xuống cống và tràn ra đường.

Quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường

Ðiều đáng nói, vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng lân cận. Mặc dù nhiều cơ quan địa phương đã vào cuộc nhưng rồi cho đến hiện tại vẫn chưa có một giải pháp nào giải quyết được tổng thể tình trạng ô nhiễm và các làng nghề.

Mới đây, với sự hỗ trợ của Hợp phần kiểm soát ô nhiễm khu vực đông dân nghèo, tỉnh Hà Nam đã triển khai xây dựng "Dự án xây dựng khu xử lý nước thải tại làng nghề Nhật Tân". Ðể cải thiện hiện trạng ô nhiễm môi trường ở Nhật Tân các nhà khoa học đã thực hiện đồng bộ các giải pháp như giáo dục môi trường, quản lý môi trường và các giải pháp kỹ thuật. Kết hợp cải tạo ao chứa nước thải với hệ thống cống thu gom nước thải và xây dựng hệ thống xử lý nước thải trước khi thải vào các ao chứa nước, xử lý bằng bể tự hoại với vách ngăn cách mỏng dòng hướng lên và lọc kỵ khí. Ðây là mô hình điểm để nhân rộng cho các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Ðể hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, Hà Nội đã kiểm tra và ký cam kết với các cơ sở sản xuất thực hiện bảo đảm môi trường sạch. Thành phố đã xác định được 83 cơ sở gây ô nhiễm và không phù hợp với quy hoạch, đồng thời lên danh mục những ngành nghề phải di chuyển ra khỏi nội thành để bảo đảm an toàn cho môi trường. Hiện thành phố đã xây dựng 18 khu, cụm công nghiệp tập trung, bố trí quỹ đất để dịch chuyển các làng nghề vào sản xuất. Làng nghề chế biến tinh bột từ sắn ở Dương Liễu nhiều năm qua chìm trong ô nhiễm khủng khiếp nay đã được cải thiện đáng kể bằng công nghệ xử lý rác thải rắn. Hay làng nghề �gốm sứ" Bát Tràng bớt cảnh khói bụi khi thay thế hàng trăm lò than bằng lò ga tiết kiệm năng lượng... Kết quả này là nhờ sự kiện Quỹ Bảo vệ môi trường lần đầu tiên thâm nhập vào khu vực làng nghề với việc cho vay lãi suất ưu đãi bắt đầu từ năm 2007.

Mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất của làng nghề đạt tới mức độ cao, đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước về mặt thể chế, chính sách để làng nghề phát triển bền vững. Vấn đề quan trọng nhất là ý thức của nhà sản xuất trong khi chưa có một quy chế mang tính pháp lý xử lý môi trường các làng nghề Việt Nam. Nhiều nhà khoa học cho rằng, cần phải xây dựng quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức cho người dân làng nghề để họ thay đổi hành vi, chung tay bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các làng nghề cũng cần tiếp cận với những giải pháp kỹ thuật, công nghệ sản xuất sạch hơn nhằm phòng ngừa phát sinh chất thải và biện pháp xử lý chất thải. Nhà nước cũng cần nhanh chóng có biện pháp xử lý thích hợp đối với các làng nghề gây ô nhiễm môi trường. Có như vậy, các làng nghề mới thật sự phát triển hiệu quả và bền vững.

Có thể bạn quan tâm