Từ năm 1994 đến tháng 12-2005, trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, nước ta đã phải đối mặt với 25 vụ kiện về các biện pháp bảo đảm công bằng trong thương mại quốc tế (Trade Remedies), trong đó có 21 vụ kiện bán phá giá và bốn vụ kiện tự vệ đối với sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam.
Từ những vụ kiện bán phá giá đối với các sản phẩm của Việt Nam liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây, một mặt cho chúng ta thấy rõ những khó khăn thách thức mới của toàn cầu hóa về hội nhập kinh tế, nhưng mặt khác cũng chứng tỏ sự lớn mạnh về xuất khẩu của Việt Nam và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Trong hoạt động thương mại, việc cạnh tranh lôi kéo bạn hàng, giành giật thị trường, tìm mọi cách có thể để có lợi nhuận cao là chuyện đương nhiên.
Trong nhiều trường hợp, có lợi cho nước xuất khẩu thì lại bất lợi cho nước nhập khẩu. Ðiều đó rất dễ đụng đến các rào cản chung và riêng của mỗi nước, dẫn đến kiện tụng lẫn nhau mà phổ biến là các vụ kiện bán phá giá. Chúng ta chưa bàn đến chuyện kiện tụng đó là đúng hay sai nhưng về câu chuyện kiện tụng này không chỉ xảy ra với các nước đang phát triển, trong đó có nước ta mà còn diễn ra đối với nhiều nước phát triển khác trên thế giới, kể cả Mỹ.
Nói cách khác, với một nước, chuyện kiện và bị kiện đều có thể diễn ra. Theo số liệu của Ban Thư ký WTO, từ năm 1995 đến tháng 6-2005, các nước thành viên WTO đã tiến hành 2.741 cuộc điều tra về bán phá giá, đứng đầu là Ấn Ðộ 412 cuộc, kế đến là Mỹ 358, EU 318 vụ...
Tuy nhiên, rốt cuộc chỉ có 1.722 vụ, chiếm 63% là có bán phá giá và bị áp thuế bán phá giá mà thôi. Cao nhất trong tổng số 98 nước và vùng lãnh thổ bị đơn kiện bán phá giá là Trung Quốc 434 vụ, Hàn Quốc 212 vụ, Mỹ 158 vụ, Nhật Bản 121 vụ, Thái-lan 105 vụ, Ðài Loan 155 vụ...
Từ thực tế trên chúng ta có thể thấy rằng khả năng xảy ra vụ kiện bán phá giá đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ không đơn thuần chỉ từ các nước công nghiệp phát triển mà còn từ các nước bạn hàng khác nữa, nhất là các nước giàu tiềm năng, lợi thế xuất khẩu trong khu vực.
Những năm gần đây số lượng các cuộc điều tra bán phá giá đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh. Nếu như giai đoạn 1994 - 2001, Việt Nam chỉ phải đối phó với một, hai vụ kiện/năm thì từ các năm 2002 đến 2005 số các vụ kiện liên quan hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng bình quân bốn vụ/năm. Riêng trong năm 2004, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối phó với bảy vụ kiện liên quan nhiều loại mặt hàng khác nhau, từ sản phẩm vòng khuyên kim loại, sản phẩm xe đạp, chốt, then cửa bằng i-nốc và các phụ tùng, đèn huỳnh quang, tôm, ván lướt sóng; săm, lốp xe đạp, xe máy.
Trong số 18 vụ điều tra đã có kết quả, chỉ có sáu vụ có quyết định không áp dụng thuế do hàng xuất khẩu Việt Nam không gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước nhập khẩu, hoặc chiếm thị phần nhỏ, hoặc do bên khởi kiện rút lại đơn kiện...
Năm 2005 có ba vụ kiện được khởi xướng. Ðó là vụ kiện bán phá giá giày có mũ da tại thị trường EU từ tháng 7-2005 và mới đây, tháng 12-2005, Ai Cập kiện đèn huỳnh quang và vụ Argentina kiện nan hoa xe đạp, xe máy.
Từ tình hình thực tế, các vụ kiện trong giai đoạn hơn 10 năm qua, chúng ta thấy ở giai đoạn trước, các mặt hàng của Việt Nam bị áp dụng biện pháp bán phá giá chưa phải là những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, kim ngạch xuất khẩu thấp (mì chính, bật lửa, tỏi...). Ðây có thể là một trong những lý do dẫn đến việc các doanh nghiệp của Việt Nam chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề bán phá giá.
Song, tiếp sau các vụ cá tra - ba-sa năm 2002, vụ tôm năm 2003, vụ kiện bán phá giá giày mũ da của EU 2005 cho thấy các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta đã bắt đầu bị lọt vào "tầm ngắm" của các đối thủ cạnh tranh có các ngành sản xuất những mặt hàng tương tự tại một số thị trường xuất khẩu khác.
Thí dụ, vụ giày mũ da hiện đang là một vụ kiện khá nghiêm trọng vì giày dép là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tại một thị trường trọng điểm mà nhiều nước khác từ lâu đã đặt chân tới. Vì vậy, nhìn về tổng thể, các vụ kiện bán phá giá sẽ còn tiếp tục diễn ra và các mặt hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh vào một số thị trường đều chịu thách thức về nguy cơ có thể phải đối đầu với những vụ kiện này.
Bên cạnh những mặt hàng chủ lực, thì những mặt hàng có số lượng xuất khẩu còn nhỏ bé hoặc mới thâm nhập thị trường cũng có thể trở thành mục tiêu của các vụ kiện bán phá giá do phương pháp tính gộp của nước khởi kiện. Ðó là cách tính tổng lượng hàng hóa liên quan của nhiều nguồn nhập khẩu, nếu quá 70% thì có khả năng một vụ điều tra sẽ được tiến hành. Các vụ then cửa i-nốc ở EU, săm, lốp xe đạp, xe máy ở Thổ Nhĩ Kỳ và vụ đèn huỳnh quang ở Ai Cập mới đây là những thí dụ.
Có thể nói rằng, những vụ việc vừa qua là những thử thách khắc nghiệt đầu tiên mà Việt Nam gặp phải kể từ khi mở cửa hội nhập, nhưng chúng cũng đem lại những kinh nghiệm vô cùng quý giá cho toàn thể cộng đồng doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng Việt Nam nói chung cũng như các cơ quan quản lý nhà nước nói riêng. Cùng với việc tăng cường hội nhập, đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu, các vụ kiện thương mại, trong đó có kiện bán phá giá, chắc chắn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hơn.
Khi hàng hóa Việt Nam đã có được chỗ đứng vững chắc tại các thị trường tiêu thụ trọng điểm thì, đây không chỉ là mối quan ngại cho các nhà sản xuất nước sở tại, mà còn là nỗi lo cho các nước khác cùng có mặt hàng xuất khẩu lớn. Ðiều đó tất yếu sẽ dẫn đến các biện pháp cản trở, gây khó khăn, đặc biệt với sự vận động ráo riết của các nhà sản xuất nội địa có sản phẩm cạnh tranh với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ðây là nguyên nhân chính dẫn đến việc doanh nghiệp, hàng hóa Việt Nam phải đối phó với ngày càng nhiều các vụ kiện thương mại mà trong đó có nhiều trường hợp bị áp đặt các biện pháp thương mại thiếu công bằng.
Tuy nhiên, về mặt chủ quan chúng ta cũng cần thấy rằng hoạt động xuất khẩu của nước ta trong những năm vừa qua cũng còn một số hạn chế. Nổi lên là chưa có định hướng dài hạn, doanh nghiệp hoạt động tự phát, thiếu liên kết, các hiệp hội ngành hàng chưa làm tốt chức năng điều phối một chiến lược chung. Từ đó dẫn đến hiện tượng mạnh ai nấy làm, thiếu thông tin, thiếu tính cộng đồng hoặc chỉ xuất khẩu dồn vào một mặt hàng, một thị trường nhất định khi thấy có lợi, làm số lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh, dễ gây phản ứng từ thị trường nhập khẩu. Việc thiếu chiến lược đa dạng hóa mặt hàng và thị trường xuất khẩu cũng đã làm cho doanh nghiệp tổn thất nặng khi bị áp thuế, và đau đớn hơn là mất thị trường, ảnh hưởng tiêu cực đến việc duy trì sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động, v.v...
Vậy, nguyên nhân xảy ra các vụ kiện bán phá giá và giải pháp ứng phó là gì?
Theo các chuyên gia trong ngành, những nguyên nhân chính gây ra các vụ kiện bán phá giá, tựu trung ở một số điểm sau: Sức ép của tự do hóa thương mại và tình trạng lạm dụng các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng để bảo hộ ngành công nghiệp trong nước; Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, lại tập trung vào một vài thị trường sẽ dẫn đến nguy cơ bị kiện; Lẩn tránh thuế chống bán phá giá; và cuối cùng là tác động tiêu cực của cái gọi là nền kinh tế phi thị trường.
Vì vậy, để giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do các vụ kiện này gây ra, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các cơ quan hữu quan để chủ động phòng, chống các vụ kiện bán phá giá.
Hơn lúc nào hết, chúng ta phải triển khai nhanh và thực hiện thật tốt Chỉ thị số 2/2005/CT-TTg ngày 9-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc chủ động phòng, chống các vụ kiện thương mại nước ngoài. Chúng ta cần có chiến lược đa dạng hóa các sản phẩm, đa dạng hóa thị trường nhằm phân tán rủi ro "không bỏ tất cả trứng vào một giỏ" bảo đảm sản phẩm có đầu ra an toàn, ổn định.
Tăng cường tìm hiểu thông tin, xúc tiến thương mại tại các thị trường nước ngoài cũng như nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và pháp luật chống bán phá giá nói riêng để phòng tránh các vụ kiện một cách hiệu quả.
Từng doanh nghiệp ngành hàng cần xây dựng cơ chế "dự phòng và cảnh báo sớm", tự bảo vệ mình. Theo đó là phải tăng cường tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng. Ngoài việc thiết lập các trung tâm xúc tiến thương mại có đủ năng lực nghiên cứu giá cả và định hướng phát triển thị trường.
Cần có tư vấn pháp luật với sự tham gia của đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ thành thạo làm tham mưu cho hiệp hội và tư vấn cho các doanh nghiệp khi phải ứng phó với tình huống xấu xảy ra.
Khi doanh nghiệp hội nhập càng sâu và rộng vào thị trường thế giới, vai trò của hiệp hội ngành hàng trong việc thống nhất chủ trương, biện pháp ứng phó cho cộng đồng doanh nghiệp càng lớn. Tùy tình hình cụ thể của từng vụ kiện, có thể thành lập các nhóm, tổ, ủy ban hoạt động theo phạm vi sản phẩm bị kiện hoặc thuê luật sư bảo vệ cho mình nếu vụ kiện có giá trị lớn. Hợp tác tích cực, thống nhất, chủ động tham gia giải quyết vụ kiện một cách khôn khéo và hiệu quả phải luôn được coi là tiêu chí thành đạt của mỗi doanh nghiệp, hiệp hội.
Cuối cùng là hoàn thiện hệ thống sổ sách chứng từ kế toán phù hợp các quy định của pháp luật và chuẩn mực quốc tế đủ cơ sở chứng minh là mình không bán phá giá.