Nấm đen hay còn gọi là Mucormycosis là một bệnh nhiễm trùng hiếm gặp, nguy hiểm, thường ảnh hưởng đến xoang, mắt, phổi, da và não, nhất là trên những người có hệ miễn dịch suy yếu. Các trường hợp nhiễm nấm đen tại Bệnh viện Bạch Mai chủ yếu điều trị tại các khoa Tai mũi họng, Hồi sức tích cực, Thần kinh, Mắt, Nội tiết-Đái tháo đường. Đáng chú ý, phần lớn người bệnh nhập viện đều có bệnh nền và trong tình trạng nhiễm trùng nặng, có các tổn thương nhiễm nấm ăn từ xoang lan lên xương hàm, ổ mắt, hệ thần kinh… Các bác sĩ cho biết, đây là dạng nấm xâm nhập đã được y văn thế giới nhắc đến, như tại Ấn Độ trong giai đoạn vừa qua với số lượng bệnh nhân tăng đột biến; là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao sau khi nhiễm Covid-19.
Theo PGS, TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai), nấm đen là một bệnh nhiễm trùng mới nổi nghiêm trọng do bào tử nấm có tên gọi là Mucormycetes gây ra. Nhóm nấm Mucor tạo ra hàng triệu bào tử lơ lửng trong không khí và thường phát triển vào mùa hè và mùa thu; những bào tử này khi tiếp xúc với bề mặt ẩm ướt, có các chất hữu cơ thối rữa (lá cây, gỗ mục nát), phân động vật hoặc đất, chúng bắt đầu nảy mầm và tạo ra sợi nấm.
Nấm xâm nhập vào cơ thể con người qua hai con đường: Hít phải bào tử nấm từ không khí, gây nhiễm trùng phổi, não hoặc xoang; xâm nhập qua da bởi vết cắt, vết xước, vết cào, vết bỏng và một số tổn thương da khác. Những người có nguy cơ cao mắc bệnh là: người từng mắc Covid-19; người mắc bệnh đái tháo đường type 2, nhất là có tình trạng nhiễm toan ceton; người mắc bệnh ung thư, cấy ghép tạng, cấy ghép tế bào, sử dụng Corticosteroid kéo dài; người suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV; người bị chấn thương da do phẫu thuật, bỏng, trẻ sinh non, nhẹ cân và suy dinh dưỡng…
Nhiễm nấm đen có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và bộ phận cơ thể. Các triệu chứng phụ thuộc vào tình trạng nhiễm trùng nơi nấm phát triển, nó có thể dẫn đến mũi bị hoại tử thâm đen hoặc đổi mầu, đau mặt, đau vùng xoang lan lên mắt, đau đầu, đau ngực, khó thở và ho ra máu,...
Nấm đen gây ra năm dạng bệnh cảnh.
Thứ nhất, nhiễm trùng xoang và não, nhóm nguy cơ cao dễ nhiễm nấm nhất là bệnh nhân đái tháo đường không kiểm soát, người ghép thận. Các dấu hiệu của dạng bệnh này như sốt, đau đầu, đau xoang hoặc nghẹt mũi; sưng mặt một bên; tổn thương mầu đen ở phía trên bên trong miệng hoặc trên sống mũi.
Thứ hai, viêm phổi với các dấu hiệu: khó thở hoặc thở gấp; tức ngực; sốt cao trên 38 0C, ho ra máu.
Thứ ba, nhiễm trùng da và niêm mạc, thường gặp ở người không bị suy giảm miễn dịch với các dấu hiệu: đau vùng mặt sau đó xuất hiện một nốt phỏng trên da, dần dẫn tới loét da hoặc nhiễm trùng da, rồi xâm lấn vào mũi xoang, quanh gò má, giữa mắt và môi, lâu dần tổn thương da bị nhiễm bệnh chuyển sang mầu đen, sưng tấy, hoại tử.
Thứ tư, nhiễm trùng đường tiêu hóa, thường ở trẻ em, nhất là trẻ sinh non và nhẹ cân dưới một tháng tuổi với các dấu hiệu: buồn nôn và nôn, đau bụng hoặc đau dạ dày, xuất huyết dạ dày.
Thứ năm, nhiễm nấm đen Mucormycosis lan tỏa, bệnh thường xảy ra ở những bệnh nhân đã mắc bệnh mạn tính do vậy các dấu hiệu bệnh khó phân biệt với các bệnh đang có sẵn. Nhiễm trùng lan tỏa thường ảnh hưởng nhất đến não, hệ thần kinh trung ương gây tình trạng như hôn mê hoặc rối loạn ý thức.
Các dấu hiệu có thể gặp: sưng mí mắt dưới hoặc trên (hoặc cả hai), chảy mủ ra khỏi mắt; tê liệt các cơ mí mắt, bệnh diễn tiến nặng hoặc kéo dài, toàn thân suy sụp.
Hiện các bác sĩ chẩn đoán bệnh nấm đen dựa vào bệnh cảnh lâm sàng kết hợp với xét nghiệm nuôi cấy hoặc giải phẫu bệnh. Tuy vậy, việc chẩn đoán cũng còn khó khăn vì triệu chứng lâm sàng đa dạng, phức tạp; bệnh phẩm nuôi cấy khó mọc cũng như cần có các nhà giải phẫu bệnh học có kinh nghiệm để đọc tiêu bản. Trong khi đó, Bộ Y tế mới chỉ có hướng dẫn chung cho các bệnh nhân nhiễm nấm, chưa có hướng dẫn dành riêng cho bệnh nhân nhiễm nấm đen. Việc điều trị nấm đen đang sử dụng các thuốc chống nấm truyền tĩnh mạch là Amphotericin B, thời gian giai đoạn tấn công là từ 2 đến 4 tuần. Tuy nhiên, thuốc này có nhiều độc tính và rất đắt tiền, Bảo hiểm y tế chỉ chi trả 50%.
Một khó khăn khác các bác sĩ đang gặp phải trong điều trị là hết giai đoạn tấn công, người bệnh khó tìm được thuốc cho giai đoạn duy trì, đó là thuốc Posaconazol hoặc Isavuconazol. Đây là các thuốc hiếm tại thị trường Việt Nam và cũng rất đắt tiền, cho nên người bệnh dễ bỏ thuốc, không tuân thủ điều trị, dẫn đến việc bệnh dễ bị tái phát trở lại; nấm có thể ăn sâu thêm và tổn thương nặng nề hơn. Ngoài ra, nấm đen ăn sâu vào trong các tổ chức xoang, hốc mắt, tổ chức thần kinh... cần được kết hợp ngoại khoa để loại bỏ các tổ chức áp xe hoại tử và rửa sạch bằng các dung dịch sát khuẩn tại chỗ. Việc theo dõi và điều trị bệnh nền như đái tháo đường, bệnh máu, chống suy thượng thận, tăng cường dinh dưỡng... cũng đặc biệt quan trọng.
PGS, TS Đỗ Duy Cường kiến nghị Bộ Y tế sớm đưa ra phác đồ điều trị dành riêng cho loại bệnh này, nhập thuốc và có chính sách Bảo hiểm y tế chi trả cho những bệnh nhân nhiễm nấm đen. Do hiện tại chưa có thuốc đặc trị hay vắc-xin dự phòng, để phòng bệnh, nhất là nhóm những bệnh nhân có bệnh nền đái tháo đường, ung thư, suy giảm miễn dịch, hậu Covid-19... cần tránh đến khu vực có nhiều khói bụi, công trường; đeo khẩu trang hiệu suất lọc hơn 95% có than hoạt tính khi phải đến khu vực có nhiều khói bụi; tránh các hoạt động tiếp xúc trực tiếp với bụi hoặc đất, mang găng tay, ủng nếu thực hiện bất kỳ hoạt động nào liên quan đến đất; vệ sinh vùng da bị thương bằng nước ấm và dung dịch sát khuẩn để tránh nhiễm trùng da…
Các bệnh viện, cơ sở y tế cần: khử trùng các thiết bị được sử dụng bởi nhiều bệnh nhân (ống khí quản, máy thở, mặt nạ phun khí dung…); hệ thống thông gió; xử lý vết thương đúng cách… Người dân điều trị và kiểm soát tốt bệnh nền, khi có triệu chứng nghi ngờ nhiễm nấm đen cần đến các cơ sở chuyên khoa để khám và phát hiện, điều trị thuốc chống nấm sớm, đúng phác đồ để hạn chế tỷ lệ tử vong.